BẢY CHỤC NĂM (1945-2015)
BẢN
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP ĐẦU TIÊN
Trần
Gia Phụng
Vào nửa đầu thế kỷ 20, trên
thế giới, Đức xâm lăng Ba Lan ngày 1-9-1939. Anh và Pháp quyết định tuyên chiến với
Đức ngày 3-9-1939, khởi đầu thế chiến thứ hai (1939-1945). Đức tấn công Pháp, chiếm Paris ngày
14-6-1940. Yếu thế, Pháp ký hiệp ước
đình chiến với Đức ngày 22-6-1940, theo đó Đức chiếm đóng miền tây bắc,
khoảng 3/5 nước Pháp. Chính phủ Pháp
do thống chế Pétain lãnh đạo chỉ còn khoảng 2/5 nước Pháp về phía nam.
Cũng trong năm nầy, các nước
Đức, Nhật, Ý ký kết Hiệp ước Liên
minh tay ba tại Berlin (thủ đô Đức) ngày 27-9-1940, thường được gọi là
khối Trục Bá Linh-La Mã-Đông Kinh (Berlin-Roma-Tokyo Axis). Trong khi Đức và Ý tung hoành tại Âu
Châu, thì Nhật bành trướng ở Á Châu, tấn công Trung Hoa và gây ra cuộc thảm sát kinh hoàng khi đánh
chiếm Nam Kinh năm 1937.
Sau khi Đức xâm lăng Pháp năm
1939, quân đội Nhật đến Hà Nội năm 1940, áp lực Pháp để cho Nhật đóng quân
ở Đông Dương, ký kết nhiều hiệp định kinh tế có lợi cho Nhật. Từ đó, trên danh nghĩa, Nhật vẫn để Pháp
cai trị Đông Dương cho đến năm 1945 để khỏi lo việc hành chánh và an ninh
Đông Dương, nhưng Nhật hoàn toàn thao túng công việc ở Đông Dương trong đó
có Việt Nam.
NHẬT ĐẢO CHÁNH PHÁP TẠI ĐÔNG DƯƠNG NGÀY 9-3-1945
Vào năm 1941, hai biến cố
quan trọng làm thay đổi cục diện chiến tranh thế giới và sẽ ảnh hưởng đến
Đông Dương: 1) Tuy đã ký hiệp ước bất tương xâm với Liên
Xô ngày 23-8-1939 (hiệu lực trong vòng 10 năm), Đức bất ngờ tấn công Liên
Xô ngày 22-6-1941. Liên Xô vốn thân
thiện với Đức, chống lại Anh, Hoa Kỳ.
Nay bị Đức tấn công, Liên Xô ở thế phải chống Đức, quay qua thân
thiện với các nước Tây phương. (Vì vậy, ở Á Châu, cộng sản Việt Nam cộng
tác với quân Mỹ.) 2) Ngày 6-12-1941,
tổng thống Hoa Kỳ là Franklin Roosevelt viết thư đề nghị với Nhật hoàng
Hirihito (trị vì 1926-1989) ký hiệp ước bất tương xâm giữa Hoa Kỳ và Nhật,
và đề nghị Nhật rút ra khỏi Đông Dương. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu1939-1975, tập A: 1939-1946, Nxb. Văn Hóa,
Houston, Texas, 1996, tr. 125.) Đáp
lại, quân đội Nhật bất ngờ tấn công Pearl Harbor (Trân Châu Cảng) ở Hawaii
ngày 7-12-1941, tàn phá hạm đội Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương và giết hơn 2,400
người Hoa Kỳ. Ngày 8-12-1941, Hoa Kỳ
và Anh tuyên chiến với Nhật. Ngày
11-12-1941, Hoa Kỳ tuyên chiến với Đức và Ý.
Quân đội Nhật ào ạt đổ bộ lên
miền nam Thái Lan (8-12-1941), bắc Mã Lai (8-12), tấn công Manila (8-12),
đến quần đảo Luzon (10-12-1941), chiếm Bataan (9-4-1942) và toàn bộ Phi
Luật Tân (5-1942). Tuy nhiên, tình
hình thay đổi từ năm 1944. Tướng
Charles de Gaulle (Pháp) trở về Paris ngày 25-8-1944, lập chính phủ Pháp
lâm thời ngày 10-9-1944. Chính phủ
nầy chống Đức, tức cũng chống đồng minh của Đức là Nhật. Về hành chính, sau khi chính phủ Pétain
thân Đức sụp đổ, nhà cầm quyền Pháp tại Đông Dương nằm dưới quyền của chính
phủ mới ở Paris do De Gaulle (chống Đức) lãnh đạo.
Cũng từ năm 1944, tại Đông
Nam Á, Nhật bắt đầu thất thế trước sự phản công của quân đội Đồng
minh. Ngày 20-10-1944, quân Hoa Kỳ
đổ bộ tại Leyte, ở Philippines. Nhật
dự tính rút quân về Nhật. Có thể vì
Nhật lo ngại nhà cầm quyền Pháp tại Đông Dương sẽ theo lệnh tân chính phủ
Pháp ở Paris, mở cửa ở Đông Dương cho quân đội Đồng minh đổ bộ vào Đông
Dương, hoặc mật báo cho phi cơ Đồng minh tấn công những vị trí quân sự của
Nhật, nên Nhật ra tay trước, tổ chức cuộc hành quân Meigo, xóa bỏ nhà cầm quyền Pháp tại Đông Dương.
Ngày 9-3-1945, đại sứ Nhật
tại Đông Dương là Matsumoto Shunichi gặp toàn quyền Jean Decoux tại Sài Gòn
lúc 8 giờ tối, đưa tối hậu thư buộc nhà cầm quyền Pháp phải đặt lực lượng
quân sự Pháp trên toàn cõi Đông Dương dưới sự điều khiển của người Nhật
ngay tức khắc. Decoux kiếm cách trì
hoãn, liền bị quân Nhật bắt và đưa đi giam ở Lộc Ninh. Cuộc đảo chánh diễn ra không mấy khó khăn
trên toàn cõi Đông Dương. Trong vòng
hai ngày, quân Nhật làm chủ toàn cõi Đông Dương.
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM
Đại sứ Nhật tại thủ đô Huế là
Massayuki Yokoyama yết kiến vua Bảo Đại tại điện Thái Hòa (trong hoàng
thành Huế) sáng ngày 11-3-1945, giải thích những hành động mới nhất của
Nhật tại Việt Nam, và tuyên bố muốn đem "châu Á trả về cho người châu
Á". Ông ta còn nói rằng ông
ta có "nhiệm vụ dâng nền độc lập
" lên vua Bảo Đại, đồng thời kêu gọi Việt Nam cùng các nước Đông
Dương gia nhập khối Đại Đông Á do Nhật đứng đầu. (Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, California: Xuân
Thu, 1990, tr. 159.) Khối nầy đã
được chính phủ Nhật công bố thành lập ngày 1-8-1940, cách đó 5 năm.
Chiều ngày 11-3-1945, vua Bảo
Đại triệu tập Cơ mật viện, các thượng thư và các hoàng thân hội họp và đưa
đến kết quả là nhà vua cùng các thượng thư Phạm Quỳnh (bộ Lại), Hồ Đắc Khải
(bộ Hộ), Ưng Hy (bộ Lễ), Bùi Bằng Đoàn (bộ Hình), Trần Thanh Đạt (bộ Học),
và Trương Như Đính (bộ Công), đồng ký bản TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP do Phạm Quỳnh
soạn như sau:
"Chiếu tình hình thế giới nói chung, và tình hình Á châu nói riêng,
chính phủ Việt Nam long trọng công khai tuyên bố, kể từ ngày hôm nay, hiệp
ước bảo hộ ký với nước Pháp [năm 1884] được bãi bỏ, và đất nước thu hồi chủ
quyền độc lập quốc gia.
Nước Việt Nam cố gắng tự lực, tự cường, để xứng đáng là một quốc
gia độc lập, và sẽ theo đường hướng của bản tuyên ngôn chung của khối Đại
Đông Á, hầu giúp đỡ nhau tài nguyên cho nền thịnh vượng chung.
Vì vậy, chính phủ nước Việt Nam đã đặt tin tưởng vào sự thành tín
của nước Nhật, và đã có quyết định cộng tác với nước nầy, hầu đạt mục đích
nói trên.
Khâm thử
Huế, ngày 27 tháng giêng năm thứ 20 triều Bảo Đại.” [Bảo Đại, sđd. tr. 162)
Do tình hình thế giới biến
chuyển và do sự can thiệp của Nhật Bản, vua Bảo Đại đã lợi dụng thời cơ,
tuyên bố từ nay nước Việt Nam chính thức độc lập. Đây là BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP ĐẦU TIÊN
của Việt Nam, chấm dứt nền bảo hộ của Pháp đã được thiết lập hơn 60
năm.
Khi đảo chánh lật đổ Pháp,
mục đích chính của người Nhật nhắm chống lại Đồng minh và bảo toàn lực
lượng Nhật trên đường lui quân về nước.
Lúc nầy Nhật không còn tham vọng bành trướng. Vì vậy, khác với người Pháp trước đây ở
Đông Dương, người Nhật chỉ kiểm soát về quân sự, để cho vua Bảo Đại tự trị,
không can thiệp sâu vào công việc nội bộ của Việt Nam. Tuy nhiên nền độc lập Việt Nam lúc đó khá
bấp bênh vì Nhật Bản sắp thua trận, trong khi Pháp vẫn không từ bỏ tham
vọng đế quốc, sẽ kiếm cách trở lui Đông Dương.
PHẢN ỨNG CỦA PHÁP
Tháng 9-1943, từ Alger Uỷ ban
Giải Phóng Dân tộc Pháp (UBGPDT) (Comité Française de Libération Nationale,
lập ngày 3-6-1943 đến ngày 3-6-1944) quyết định cử tướng Charles A. H.
Blaizot phụ trách Đạo quân Viễn chinh Viễn đông, nhắm đến Đông Dương. Ngày 8-12-1943, cũng từ Alger, UBGPDT
Pháp ra thông báo về chính sách đối với Đông Dương, có đoạn như sau:
“... Với các dân tộc đã biết xác định cùng một lúc tình cảm yêu nước và ý thức trách nhiệm chính trị của mình,
nước Pháp đồng ý ban hành, trong lòng cộng đồng Pháp, một quy chế chính trị
mới mà, trong khuôn khổ của tổ chức liên bang, những quyền tự do của các
nước khác nhau trong Liên hiệp sẽ được nới rộng và xác lập; tính chất tự do
rộng rãi của các chế độ sẽ được nhấn mạnh mà không mất dấu hiệu của nền văn
minh và truyền thống Đông Dương; những người Đông Dương, cuối cùng, có thể
nhận làm bất cứ công việc gì và chức vụ nào của Nhà nước.
Cùng với sự cải cách quy chế chính trị nầy, sẽ có một cuộc cải cách
quy chế kinh tế của cả Liên hiệp mà, trên căn bản tự trị về quan thuế và
thuế khóa, sẽ bảo đảm sự phồn thịnh của Liên hiệp và góp phần vào sự phồn
thịnh các lân bang...” (Philippe
Devillers, Paris Saigon Hanoi,
Paris: Gallimard- Julliard, 1988, tr. 23.)
Tuy hứa hẹn như trên, nhưng
sau đó, khi Đức bắt đầu thua trận, và Đồng minh càng ngày càng thắng thế,
thì UBGPDT Pháp thay đổi thái độ.
Ngày 1-2-1944, để chuẩn bị tái chiếm Đông Dương, tướng Charles de
Gaulle ra lệnh cho tướng Charles André Henri Blaizot thành lập Lực lượng
Viễn chinh Pháp tại Viễn đông (F.E.F.E.O = Forces Expéditionnaires
Françaises d'Extrême-Orient), gồm 2 lữ đoàn thuộc địa là Madagascar và
Cameroun, và một đơn vị khinh binh ứng chiến (Corps léger
d'intervention). Đạo quân F.E.F.E.O
của Pháp được đặt dưới Bộ Chỉ huy Đông Nam Á (South East Asia Command =
SEAC) do đô đốc người Anh là bá tước Louis Mounbatten điều khiển. (Philippe
Devillers, Histoire du Viêt-Nam de
1940 à 1952, Paris: Editions Du Seuil, 1952, tr. 145.)
Trong cuộc họp của UBGPDT
Pháp do De Gaulle chủ trì tại
Brazzaville ở Congo, được xem là thủ phủ của Pháp tại Phi Châu, từ
30-1 đến 8-2-1944, để thảo luận về các vấn đề thuộc địa sau thế chiến thứ
hai, bản tuyên bố vào cuối Hội nghị có đoạn viết như sau:
“Các mục đích của sự nghiệp thực dân mà nước Pháp thực hiện tại các thuộc địa đã loại bỏ ý định tự trị,
mọi khả năng tiến hóa ngoài khuôn khổ đế quốc Pháp: cơ cấu một chính phủ tự
trị có thể có tại các thuộc địa dù cho còn lâu mới được thực hiện, phải bị
loại trừ.” (Hoàng Hiển, Vua Duy
Tân, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1996, tr. 90.)
Tiếp đó, khi Nhật lật đổ Pháp
ở Đông Dương ngày 9-3-1945, vua Bảo Đại đưa ra bản Tuyên ngôn độc lập ngày
11-3, làm cho De Gaulle rất tức giận.
Gần nửa tháng sau, De Gaulle đưa ra bản tuyên bố ngày 24-3-1945 về
vấn đề Đông Dương như sau:
“Liên bang Đông Dương sẽ hợp cùng với nước Pháp và các thành phần
khác trong cộng đồng thành Liên Hiệp Pháp, mà nước Pháp sẽ đại diện để đảm
trách những quyền lợi ở bên ngoài.
Đông Dương sẽ được hưởng nền tự do riêng trong Liên Hiệp nầy.
Những người thuộc quốc tịch liên bang Đông Dương sẽ là công dân
Đông Dương và công dân Liên Hiệp Pháp.
Với tư cách nầy, họ sẽ được giữ một cách công bằng theo khả năng mọi
chức vụ và công việc liên bang ở Đông Dương cũng như trong Liên Hiệp Pháp,
không phân biệt sắc tộc, tôn giáo, nguồn gốc.
Những điều kiện theo đó Liên bang Đông Dương sẽ tham gia vào các cơ
chế Liên Hiệp Pháp, cũng như quy chế công dân Liên Hiệp Pháp, sẽ được ấn
định bởi Hội đồng lập hiến.” (Charles de Gaulle, Mémoires de guerre, Le salut: 1944-1946, Paris: Plon, 1959, tr.
439.)
Tuyên bố của Hội nghị
Brazzaville năm 1944 cùng tuyên bố của De Gaulle ngày 24-3-1945 cho thấy
tham vọng của Pháp là muốn tái lập nền thống trị tại Đông Dương, về sau sẽ
giải thích thái độ im lặng của chính phủ lâm thời Pháp do De Gaulle lãnh đạo,
trước thông điệp kêu gọi giúp đỡ của vua Bảo Đại gởi các cường quốc, sau
khi Nhật Bản đầu hàng 14-8-1945 và trước khi Việt Minh cộng sản cướp chính
quyền.
Tuyên ngôn độc lập ngày
11-3-1945 của vua Bảo Đại chẳng những bị chính quyền Pháp bất bình, mà còn
bị báo chí Pháp chỉ trích là ông đã phản bội nước Pháp khi tuyên bố độc
lập. Về sau, trong một cuộc họp báo
tại khách sạn Ritz ở Paris vào đầu năm 1948, Bảo Đại lúc đó là cựu hoàng,
giải thích:
“Ngày 6 tháng 6 năm 1884, khi ông bác Kiến Phúc tôi còn là ấu quân,
quan phụ chánh Vương quốc An Nam đã ký với nước Pháp, một hiệp ước bảo
hộ. Theo điều 16 của hiệp ước nầy,
để đổi lại những ưu quyền dành cho nước Pháp, nước Pháp long trọng cam kết
che chở cho Vương quốc An Nam, bảo đảm an ninh cho Quân vương, Hoàng đế An
Nam chống lại bất cứ nội loạn hay ngoại xâm nào. Thế mà năm 1945, trước sự xâm lăng của
Nhật Bản, và trước cuộc nổi dậy của cách mạng Việt Minh, thì đâu là những
lời cam kết của Pháp?... Vậy thì ai là người đầu tiên đã không làm tròn bổn
phận đối với lời cam kết? Ai làm cho
nó lỗi thời, mất hết hiệu lực? Ai đã
vi phạm hiệp ước?” (Bảo Đại, sđd.
tr. 307.)
Như thế, trong khi Pháp gặp
nhiều khó khăn ở Âu Châu, bị Đức xâm lăng và chiếm đóng một nửa phía bắc
nước Pháp, thì Nhật Bản xuất hiện ở Đông Dương, đảo chánh lật đổ Pháp ngày
9-3-1945.
Chính trong hoàn cảnh nầy,
dựa vào sự ủng hộ của người Nhật, ngày 11-3-19-1945 vua Bảo Đại tuyên bố
hủy bỏ hiệp ước bảo hộ Pháp tại Việt Nam ký kết ngày 6-6-1884 dưới thời vua
Kiến Phúc (trị vì 1883-1884), và thu hồi chủ quyền quốc gia Việt Nam.
Đây là BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC
LẬP ĐẦU TIÊN của Việt Nam, rất hợp
với lòng dân, do chính quyền hợp pháp chính thống của người Việt Nam lúc đó
công bố, chứ không phải do một đảng phái nào đơn phương quyết định. Bản tuyên ngôn nầy hoàn toàn do người
Việt soạn thảo, không nhờ người ngoại quốc soạn giùm và không vay mượn ý
tưởng ngoại lai. (Trích: Bảo Đại (1913-1997), Toronto: Nxb.
Non Nước, 2014.)
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto,
01-02-2015)
|