BIA
TRONG KHOA HỌC và ĐỜI SỐNG
Nguyễn Quý Đại
Từ thời cổ
đại, con người đã văn minh, biết áp
dụng bốn nguyên tố trong vũ trụ: đất,
nước, không khí và lửa để sống với
thiên nhiên, lấy mật ong chế rượu „Met. Ngành
khảo cổ học đại học Yale khám phá
được các dụng cụ làm bánh mì và chế bia
của nền văn hóa cổ đại, từ 4500
trước Thiên Chúa (CN) ở Kairo, Ai Cập. Theo tài
liệu thì dân tộc Sumer ở gần vùng Babylon cổ phát
minh ra chữ viết Alphabet, toán học, thiên văn
học, chế bia. Người Sumer đã khai phá ra nền
tảng văn hóa của con người “Kulturvolk/cultural
people“. Dân tộc Sumer lập quốc ở phiá Nam Akkad
thuộc Luỡng Hà, nằm giữa hai dòng sông Euphrat và
Tigris (sông Euphrat dài 2.736 km và sông Tigris dài 1900 km ở vùng
cận đông chảy qua Iraq và Thổ Nhĩ Kỳ).
Văn minh của người Sumer phát triển và lan
rộng trong vùng Mesopotamia và trở thành cái nôi văn minh của
nhân loại “kultivierten Menschen/ cultivate humans“.
Lịch
sử về bia
Bia trở thành câu chuyện về tín
ngưỡng và thần thoại, thời tiền sử con
người với tên Enkidu mà các thánh thần muốn so sức
mạnh con người với Gilamesch. Gilamesch gởi
người đàn bà một tuần lễ đến khai
hoá văn minh cho Enkidu, người Enkidu chưa biết ăn
bánh mì chưa biết uống bia, chính người đàn bà
nầy dạy cho biết uống bia… (xem trích dẫn phần 1 cuối bài). Có
thêm câu chuyện, người phát minh ra bia là một bệnh
nhân nghèo, ông ta bỏ bánh mì cứng trong ly nước cho mềm
để ăn, nhưng ông để quên hai ngày sau bánh mì lên
men trong ly như một món cháo đặc, ông ăn có cảm
giác ngây ngất say vì hơi men sau đó thì lành bệnh. Từ
đó ông làm thí nghiệm thành một công thức để
giúp cho ngành y khoa chữa bệnh và chế bia như nước
uống của thánh thần “göttliches Getränk“. Bia cũng được
đề cập tới trong Thiên Tình Sử của
người Sumer một bản trường ca „Hymne Für
Ninkasi/ Hymn for Ninkasi“ bất hủ hơn 3900 năm
để tỏ lòng tôn kính nữ thần Ninkasi là vị
thần bảo trợ cho việc nấu bia. Người
Sumer mở đầu thời đại chế bia với
20 „hãng“: 8 hãng dùng loại lúa Emmer (Triticum dicoccum). 8 hãng bia dùng
luá mạch (Gerste) và 4 hãng khác dùng loại ngũ cốc
(Getreidegemisch). Bia có màu đục không lọc nên người
uống phải dùng ống hút, xuất cảng xa hơn
1000 km tới tận Ai Cập (Ägypten/ Egypt). Ngành nấu bia
được truyền sang các nước lân cận trong
vùng Lưỡng Hà (Mesopotamia) Nấu bia với các loại lúa
mạch (Hafer), bắp (Mais), lúa mì đen(Roggen), lúa mì (Dinkel),
hạt kê (Hirsen)…Triều đại thời Babylon cổ,
vua Hammurabi có đạo luật sản xuất bia phân phối
cho mọi người như một phần ăn trong ngày
theo từng giai cấp: công nhân 2 lit, công chức 3 lit, những
người lãnh đạo tôn giáo 5 lit. Bia không bán nhưng
trao đổi bằng lúa mạch.
uống bia bằng ống hút
Năm 1911 sự khai quật cái giếng ở Alzey thời La
Mã, các chuyên gia ngành khảo cổ học tìm thấy ly bằng
đá đã chứa mạch nha hơn 1600 năm. Ngành bia phát
triển mạnh theo thời gian ảnh hưởng vào
đời sống của nhân loại. Cha đẻ của
ngành y khoa Hippokrates 370 trước CN công nhận bia có thể
chữa trị bệnh mất ngủ. Men bia (Bierhefe) có thể
dùng để chữa trị bệnh gan Hepatitis, vàng da,
bệnh tiểu đường, bướu độc,
bệnh lú lẫn Alzheimer. Nhà triết học cũng là Bác
sĩ người Thụy Sĩ Paracelsus (1493-1541) đã
viết bia là thần dược „Das Bier ist eine wahrhaft
göttliche Medizin/ The beer is true stop a divine medicine“.
Một lít bia có 450 kcal
(=1870 kJ), acid hữu cơ (0,7mg), alcool (40g), chất
đắng (0,02mg), glucid (35mg), glycerol (1,6mg), khí carbonic (4,5mg),
muối khoáng chất (1,6mg), Ca (30-100mg), K(300-450mg), Mg (70-135mg),
Na (25-130mg), Vitamin B1 (0,04mg), Vitamin B2 (0,3 bis 0,4 mg),
Vitamin B6 (0,47 bis 0,82mg), Biotin (0,5mg), Nikotinsäure (6,3 bis 8,8 mg),
Folsäure (0,8 mg) và Pantothensäure (0,9 bis 1,1mg) phải đúng tiêu
chuẩn 1/3 Alkohol, 1/3 Kohlensäure
và 1/3 Restextrakt.
Các giai đoạn chế
biến bia
1/ Lúa mạch ngâm nước thời
gian 3-4 ngày rửa sạch để ráo, ủ cho rễ con
mọc ra khoảng 1 tuần đến 11 ngày. Sau đó
sấy khô rễ còn rớt lại hạt mạch nha
mềm phát sinh ra nhiều enzym gồm có Amylasen, Peptidasen,
Glucanasen, Lipasen..chuyển hoá tinh bột thành
đường. Giai đoạn sấy nhiệt độ
cao 80-85°C tạo hương vị và màu sấy nhiệt độ cao mạch nha sẽ
có màu đen nhạt, nếu nhiệt độ thấp có
màu vàng nhạt. Những thế kỷ trước, mạch nha được làm khô bằng
than củi, trấu cho đến
năm 1817, Daniel Wheeler chế tạo lò nướng,
mạch nha không bị hôi mùi khói. Mạch nha có phẩm
chất tốt, lúa mạch gặt vào mùa hè và giống lúa
phải nhiều enzym.
2/ Xay mạch nha thành bột cho vào thùng
tinh chế (Läterbottich) với nước quậy
đều đun nóng với nhiệt độ khác nhau
(50-60-70°C). Nước có màu xậm „Brauprozess“ vào lúc nầy,
diastase làm nhiệm vụ biến hóa tinh bột trong
mạch nha thành đường, một hỗn hợp
dextrin đồng thời phân hủy những chất có
đạm phức tạp ra albumin, peptin, amin acid. Nước
phải tinh khiết ; mỗi hãng bia thường có
giếng nước «Qellen or
Brunnen», dung tích chế biến thí dụ 100 kilo mạch nha
với 400 lit nước tạo ra dung dịch hèm (Malztreber).
3/ Hèm bia trong thùng tinh chế,
được ép và lọc chia làm hai phần: nước
và xác hèm ép cứng thải ra dùng làm thức ăn cho gia súc.
4/ Nước hèm nguyên chất trong
thùng đun sôi đến 100°C trộn đều thời
gian 1-2 giờ, chấm dứt hoạt động của
Enzyme làm kết tủa những chất có đạm,
đồng thời khử khuẩn và cô đặc dung
dịch. Giai đoạn nầy cho gia vị hoa bia vào thùng. Hoa
bia có những chất humulon, lupilon làm ảnh hưởng hương
vị của rượu bia. Được chế thành bằng bột hay viên, thí
dụ 100-400 gr hoa bia cho 400 Hectoliter. Hoa bia có vị
đắng để giảm bớt vị ngọt
của đường mạch nha và có kháng sinh giúp cho
việc lên men bia tốt hơn, lượng hoa bia nhiều
ít tuỳ theo các loại bia sẽ sản xuất.
5/ Hèm được chuyển sang bồn
(Whirlpool) có bộ xoáy nước, và điều hòa
nhiệt độ từ 100°C xuống 8
đến 15°C. Thời gian nầy
người ta cho men (Hefe). Sự xúc tác của men biến
đường mạch nha thành rượu (Alkohol/alcohol) và khí (Kohlensäre/carbonic acid CO2) (Diacetyl, Ester, Aldehyde
Schwefelverbindungen/sulfur connections). Nhiệt độ và
thời gian dài ngắn khác nhau, nhưng không quá 50°C
được chia làm hai phần:
a/ Lên men trên obergärige/Saccharomyces cerevisiae nhiệt
độ (10-25°C) lớp men kết tạo nổi lên trên
thời gian 3 ngày, ở nhiệt độ này tạo ra
một lượng đáng kể các hợp chất
hữu cơ „este“, tạo mùi vị khác nhau như: Altbier,
Kölsch và Weizenbier.
b/ Lên men dưới Untergärige/Saccharomyces uvarum nhiệt
độ (5-10 °C) và sau đó được
lên men lâu ở nhiệt độ từ (0-4°C) thời gian
7 ngày, lớp men nằm
dưới đáy thùng, biến thành loại bia lager
xuất cảng như: Pilsener Biere, Lagerbier, Export hay
Märzen được tiêu thụ nhiều nhất trên
thế giới..
6/ Bồn chế bia nhiệt
độ lạnh phải kiểm soát đúng và thời
gian bao nhiêu ngày, nấm men được gạn lọc
vớt ra, có thể làm men tươi hay khô sử dụng
tiếp. Quá trình lên men đã được hoàn thiện, bia chứa trong bồn lạnh
từ (0-1°C) thời gian
khoảng 3 tuần lễ sinh ra khí (CO2)
carbonic, sau đó
chuyển qua hệ thống lọc các cặn bã và vô chai (1851 đã có
bia chai), thùng làm bằng
gỗ hay kim loại gọi là Fass/Barrel đóng
kín giữ được áp suất khí Kohlensäure/carbonic.
Sản xuất bia qua
những giai đoạn căn bản trên, tuy nhiên vấn
đề nấu thêm các loại gia vị với bí quyết
riêng «cha truyền con nối» hàng ngàn loại bia có mùi vị
thơm, ngọt đắng khác nhau, cũng khó có thể khám
phá công thức chế biến của hãng Coca Cola vẫn còn
trong vòng bí mật. Mỗi hãng bia đều có những loại
bia đặc biệt theo từng mùa. Giai đoạn quan
trọng nhất trong việc chế tạo bia là thời
gian cho lên men. Men có hơn 1000 loại khác nhau nhưng
chỉ dùng loại men chế rượu và bánh mì, bồn
chứa bia phải khử trùng loại bỏ những ký
sinh khác nếu còn ở trong bồn có thể cản
trở tiến trình lên men và gây ra thiệt hại.
Thế kỷ thứ 17,
nhà bác học Anton van Leeuwenhoek (1632-1723) sinh ở thành phố
Delft, Hoà Lan, phát minh kính hiển vi khám phá ra một thế giới
mới đối với sự tồn tại của nhân
loại, tìm thấy sinh vật đơn bào «Einzeller» và
vi khuẩn «Bakterien». Louis Pasteur (1822-1895) tìm ra
phương pháp khử trùng và khảo cứu chế
biến cách lên men nhanh bảo đảm trong tiến trình
chế tạo. Pasteur lại phát minh ra một kỹ
thuật nhằm giảm thiểu sự tạp nhiễm
môi trường nuôi cấy bằng cách đun nóng môi
trường này lên đến khoảng 55-60°C trong
điều kiện không có không khí. Kỹ thuật này sau
đó được đặt tên là phương pháp
khử vi khuẩn Pasteur (pasteurisation), được
sử dụng rộng rãi trong công nghiệp chế tạo
và bảo quản rượu vang. Ông đã hướng
dẫn những người làm rượu chỉ nên
sử dụng nguồn vi sinh vật sạch, không lẫn
các sinh vật ký sinh để tránh các trường hợp
sản phẩm bị hư hỏng. Đối với công
nghiệp sản xuất bia, Pasteur khuyên nên tiệt
khuẩn dung dịch nước ép bằng cách đun nóng
với điều kiện không để bị tạp
nhiễm và sau đó làm lạnh trước khi cho lên men
bằng nguồn nấm men tinh khiết.
Louis Pasteur với phương pháp khử
trùng và nhiều bác học kế tiếp đã nghiên cứu
cho công việc sản xuất bia hoàn hảo hơn sau
nầy: Hanse, Emil Christian và Linde Carl von. Để thời
gian lên men bia mau hơn, nhà bác học nghiên cứu ngành khoa
học tự nhiên (Naturwissenschaften) Hanse E. Christian (1842-1909)
sinh ở Kopenhagen, Đan Mạch, làm thí nghiệm ở
trung tâm nghiên cứu Carlsberg từ (1880-1883). Phòng thí
nghiệm này phát mình được men bia "Saccharomyces
Carlsbergensis". Tuy nhiên Ông Jacob Christian Jacobsen chủ hãng
bia cho rằng không thể rút ngắn thời gian ủ bia
trong tiến trình chế biến, làm bia kém phẩm chất,
ngược lại con trai ông là Carl Jacobsen muốn rút
ngắn thời gian này để có thể chế bia nhanh
hơn khỏi mất thời gian chờ đợi… Rất
tiếc thời đó chưa có máy lạnh để
điều hòa việc sản xuất. Nhà bác học
Đức Linde Carl von (1842-1934) ở Munich năm 1871 phát
minh được máy lạnh bằng ammoniac (nén) cho
tới năm 1881 máy lạnh được sử dụng
rộng rãi, đến năm 1877 nhờ máy lạnh các hãng
bia sản xuất quanh năm. Cùng với sự ra đời
của nhiệt kế, tỷ trọng kế
giúp các hãng sản xuất bia tăng hiệu quả và
kiểm soát nồng độ rượu. Người
Đức Gabriel Sedlmayer (1850-1931) áp dụng các phương
pháp lên men thành công, và nhiều nhà bác học khác tiếp
tục đóng góp và phát minh, mở đầu thời
kỳ phát triển và thịnh vượng của ngành
sản xuất bia trên thế giới cho đến ngày nay.
mạch nha Hoa
bia Hopfe
Thời Trung cổ, người ta dùng các
loại ngũ cốc để nấu bia và gia vị các
loại thảo mộc trái cây có tên khoa học: Artemisia
vugaris, Rubus fruticosus, Vitexagunus-castu, Coriandrum sativum, Capsicum sp,
Prumus spinosa, Brassica nigra, Rum, Juniperus communis, Wacholder, Gagel,
Schlehe, Eichenrinde oak
crust,
Wermut, Kümmel, Anis, Lorbeer (laurel) Schafgarbe (sheep sheaf), Stechapfel,
Enzian, Rosmarin, Rainfarn, Johanniskraut, Fichtenspäne (spruce particles)
Kiefernwurzel..và nhiều loại
khác
Hoa bia „Đường hoa thảo“
(Hopfen/Hop/Houblon) loại dây leo có gai tên khoa học Humulus-
Lupulus được tìm thấy vào thế kỷ thứ 8
ở thung lũng Talmud ở thành Babylon. Họ trồng
lấy hoa cái làm thảo dược „kasuta“ cho đến
thế kỷ thứ 16 bắt đầu dùng làm gia vị
nấu bia thêm hương thơm, mùi vị hơi
đắng bảo quản lâu không làm mất phẩm
chất. Các nước Âu châu lấy giống về
trồng ở các Tu Viện, và phát triển trồng thành
những vườn lớn, ngày nay khắp nơi trên
thế giới đều trồng nhiều loại dây hoa
bia, mọc cao tới 6m. Mùa đông rụng lá thân giây trơ
trọi vẫn chịu đựng được giá
lạnh, đến mùa xuân mọc rất nhanh, mỗi ngày
có thể leo lên cao 30 cm. Loại dược thảo từ
hoa bia trị bệnh mất ngủ, làm thuốc an
thần. Ngoài những thành phần chính (%): protein (55),
nhựa (19), cellulose (13), hoa còn chứa tannin (3), tinh dầu
(0,4), tro (7,5) và nước (12,5). Hoa bia có các loại
Japanischen Hopfen (Humulus scandens), ở Bavaria trồng loại
(Nittelfrueh Hopfen); Thụy sĩ và Wuerttemberg trồng
(Tettmanger Hopfen), Tschechei (Saazer Hopfen); phần lớn ở
Hoa Kỳ trồng
(Cascade-Hopfen)
Bia có một
lịch sử lâu dài, sử gia Diodorus Siculus người Hy
Lạp viết bia được tìm thấy ở Pelusium
năm 2017 trước CN. Thời La Mã lúc đầu dùng
bia, sau đó rượu nho được thay thế cho
giới quý tộc, vì bia phẩm chất chưa
được tinh khiết dành cho giới bình dân.. Nhưng
đến thời Hoàng Đế Gaius Iulius Caesar (102 trước CN) là một trong
những nhà quân sự lỗi lạc, chính trị gia
xuất sắc nhất và là một trong những lãnh tụ
vĩ đại nhất của lịch sử thế
giới thời đế quốc La Mã, ông đã phát hiện uống bia có thêm năng
lực “kräftiges Getrank“ dẫn đầu đoàn quân
viễn chinh vượt qua sông Rubion miền Đông
nước Ý, mở đầu cuộc chiến chinh
phục các nước ở Âu châu. Giai đoạn đó
bia được dùng nhiều, dù đế quốc La Mã
sụp đổ, nhưng bia được kinh doanh sâu
rộng ở thế giới phương Tây cổ.
Vào
triều đại của Hoàng đế Karl (800 sau CN),
ở Đức có tất cả 500 tu viện. Riêng vùng
Bayern có 300 tu viện sản xuất bia được 150
năm, trong mùa chay „Fastenzeit“, tu sĩ không ăn nhưng
được phép uống ngày 5 lit bia. Bởi vi bia là bánh
mì thể lỏng thay vì ăn thi uống, để có
sức khỏe cầu nguyện và làm việc „Ora et labora“,
nước uống không làm gián đọan mùa chay „Liquida non
frangunt ienum“. Năm 1040 tu viện Weihenstephan ở Freising,
München, có hãng bia lớn và lâu đời nhất, năm 1930
đại học Weihenstephan München có thêm phân khoa chuyên nghiên
cứu về bia, nhiều sinh viên trên thế giới theo
học ngành nầy
Ngày 23 April 1516, công
tước Wilhelm IV của Bayern công nhận bia là thức uống tinh
khiết [...] dass forthin
allenthalben in unseren Städten, Märkten, und auf dem Lande zu keinem Bier mehr
Stücke als allein Gerste, Hopfen und Wasser verwendet und gebraucht werden
sollen. that everywhere in our
cities, markets, and in the country
to no more beer pieces than alone barley, hop and water and be used are being
used […] Nguyên liệu chế biến bia là nước, lúa mạch (làm thành mạch nha Mälzerei),
hoa bia (Hopfen) và men (Hefe). Từ năm đó, theo
luật, các loại bia đều phải ghi trên nhãn
hiệu „Gebraucht nach dem Deutschen Reiheitsgebot von 1516/ Brewed after
the German Reiheitsgebot of 1516
vườn bia ở Đức năm 1853
Ngày nay Đức có 1300 hãng bia sản xuất hơn 6000
loại khác nhau bán ra thị trường nội
điạ và xuất cảng cho 140 quốc gia. Du khách muốn
uống thử tất cả các loại bia mỗi ngày một
thứ, phải uống đến 13 năm. Đến
Munich, du khách gọi „bia“, người phục vụ mang ra
loại bia màu vàng „Helles“; ngoài ra còn có bia vàng đục Weizenbier, hay bia đen (Dunkles,
Schwarzbier). Vùng Düsseldorf chỉ có loại „Alt“, vùng Köln thì
„Kölsch“, Berlin bia trắng (Berliner weisse), các vùng khác thường
là Pils, loại bia nầy có từ
năm 1842 theo công thức của Josef Groll ở Pilsen thành
phố nổi tiếng ngày nay
là (Tschechien/ Czech Republic)
Lễ Hội bia tháng
Mười
Tiểu bang Bayern/ Bavaria có hơn 300 hãng
Bia sản xuất theo truyền thống lâu đời, trong
mùa lễ hội chỉ có 14 lều bia lớn, nổi
tiếng được nhiều người biết
như: Augustiner (1328) hình các thầy dòng; Paulaner(1516), nhãn
hiệu nhà thờ Đức bà
Spaten (1397) hình cái xẻng, Löwenbräu hình con Sư
tử... theo phong tục tại thành phố Munich tổ
chức lễ hội bia 16 ngày, gọi là lễ bia tháng 10.
Theo lịch sử Hoàng tử Ludwig (sau nầy là vua Ludwig
đệ nhất) cưới Công chúa Therese von
Sachsen-Hildburghauen ngày 12.10.1810. Nhà vua cho mở tiệc linh đình trong 5 ngày khoản
đãi dân chúng vui chơi ăn uống và tổ chức
đua ngựa trên đồng cỏ trước cửa
ngõ của thành phố, để kỷ niệm ngày
cưới của Hoàng tử hàng năm thường
tổ chức lễ hội ăn uống, đua
ngựa …
Dân
chúng ngưỡng mộ Công chúa Therese, nên lấy tên Công chúa
ghép với chữ Wiese, gọi đồng cỏ nầy là
Theresewiese hay nói ngắn gọn là „Wiesn“ rộng 42 Hektar (0,42
km²), nơi nầy đã trở thành điạ danh tổ
chức lễ bia tháng 10. Hàng năm chỉ sử dụng
diện tích vào khoảng 26 đến 31 Hektar. Từ năm
1818 có thêm các trò chơi đơn sơ như những
chiếc đu cho trẻ em và những lều nhỏ
để quan khách ngồi uống bia. Từ năm 1870 kinh
tế phát triển, người ta bắt đầu
dựng những lều bia lớn, thu hút nhiều
người đến với nhiều trò vui chơi
được mở rộng, nhiều gian hàng bán
đồ chơi, hàng kỷ niệm…. Qua lịch sử
hội bia tháng 10 đến năm 2008 là lần thứ 175
đã bị gián đoạn 24 lần không tổ chức
được vì chiến tranh, nạn dịch tả
(Cholera), sự siêu lạm phát
…Chương trình lễ hội năm 2009 và 2010 du khách có thể
đến tham dự
2009: 19. September bis 4.October
2010: 18. September bis 3.October
Theo thời gian, con người văn minh không còn
dùng ly bằng đá. Ngày 17.04.1521, Martin Luther (1483-1546) là nhà
thần học dòng Augustine nổi tiếng Đức,
được bá tước Erich thành phố Worms tặng
cái ly bia. Luther có lời
nhận xét „Der beste Trank, den einer kennt, der wird Einbecker Bier
genennt/The best drink, which one knows, that is genennt Einbecker beer. Ngày
nay nhiều loại ly sản xuất đẹp nghệ
thuật hơn, dung tích 1 lit (Maß) có quai để cầm hay
loại ly 0,5 lit, 0,4 l và 0,33 l
..
Uống
bia cũng là một nghệ thuật, uống trà chỉ cần
hai người trong thanh tịnh, nhưng uống bia phải
3 ,4 người, trong các quán bia thường có ban nhạc
tiếng kèn, trống, âm nhạc làm tăng thêm phần vui
nhộn, có thể quên đi một phần bận rộn ưu
phiền đời sống. Ly bia phải sạch để
nghiêng rót từ từ dựng ly lên thẳng lớp
bọt trên ly khoảng chừng 3cm, nếu bia không bọt
không phải là bia. Loại weizenbier màu đục phải lắc
chai rót cho hết phần cặn dưới dáy chai, và bỏ
thêm một lát chanh cho có mùi thơm.
Chai thường có màu xanh lá cây hay màu nâu tránh bớt ánh sáng
làm mất hương vị, bởi vậy bia không để
ngoài trời, không cất giữ như rượu nho, thời
gian bảo quản đều có ghi rõ. Uống bia ướp
lạnh nhiệt độ từ 7 đến 9 °C, không bỏ nước đá. Người
làm việc trong hãng bia, hàng tháng được cho 100 lit bia. Ở Đức bia bán tự
do không giới hạn, tuy nhiên lái xe nếu bị cảnh sát
kiểm tra có rượu trong máu bị phạt nặng, đôi
lúc tịch thu cả bằng lái. Người Đức uống
bia như người Mỹ uống Coca. Vì uống nhiều
bia nên đàn ông Đức thường có cái bụng lớn
gọi „Bierbauch“. Họ uống nhiều nhưng trầm lặng,
không ồn ào như bên Việt Nam. Ở miền Nam có hãng
bia BGI (Brasseries Glacières d‘ indochine“ do sĩ quan hàng hải ông Victor Larue kỷ sư công nghiệp
người Pháp thành lập ở Sài Gòn năm 1875 cho đến
năm 1945 đổi lại chữ cuối „d’indochina“
đổi thành „Internationales“ BGI có „Biè re Larue nhãn hiệu
đầu con Cọp màu vàng, chai cao (0.66 lit). Năm 1949 lần
đầu tiên có thêm loại bia 33 „Bière 33 Export“ tại Hà Nội
chai nhỏ (0,33 lit) thơm ngon và có độ rượu
cao hơn. Hiện nay có bia Sài Gòn xanh, đỏ, bia Hà Nội..và
nhiều loại bia nhập cảng, có vài nơi nấu bia
theo công thức của Đức để bán độc
quyền trong nhà hàng. Loại bia Heineken tiêu thụ nhiều
nhất ở Việt Nam, nguốn gốc loại bia nầy
có từ năm 1592 hãng bia „De
Hooiberg“ sản xuất ở Amsterdam Hòa Lan. Nhưng ngày
16.12.1863, Gerard Adrian Heineken mua và từ đó lấy tên
„Heineken“ năm 1886 sản xuất bia lên men trên, sau đó
theo Đức sản xuất bia lên men dưới. Năm
1931 Heineken mở hãng đầu tiên ở Soerabaja, Indonesien,
năm 1930 quảng cáo xuất cảng rộng rãi trên 172
quốc gia, hiện nay xuất cảng đứng hàng
thứ 2 trên thế giới. Anh Quốc có bia đen, ale và
Guinness nỗi tiếng.
Từ
thời cổ đại đến nay, con người
đều biết uống bia, mỗi quốc gia trên thế
giới đều có hãng bia riêng. Bài tham khảo về bia
trong giới hạn, không tránh được thiếu sót về
chuyên môn, nhưng đó là nền tảng về bia trong khoa
học và đời sống
Munich
2009
Tài
liệu tham khảo
1/ Phần một (..)nicht
wusste Enkidu, was Brot war und wie man es zu Essen pflegt. Auch Bier hat er
noch nicht gelernt trinken. Da öffnete die Frau Ihren Mund und sprach zu
Enkidu: "Iss nun das Brot,o Enkidu, denn das gehört zum Leben, trink auch
vom Bier, wie es ist des Landes Brauch. (...) Enkidu trank sieben Becher Bier
(!!!) und ihm wurde leicht ums Herz. In dieser Verfassung wusch er sich und
wurde so ein Mensch/ (…) Enkidu did not know, what bread was and how one
maintains it to meals. Also it does not have beer yet learned to drink. There
Mrs their opened mouth and spoke to Enkidu: " Eat now bread, o Enkidu,
because belongs to the life, drink also from the beer, like it is the country
custom. (...) Enkidu drank seven cups beer (!!!) and it became easy around the
heart. In this condition he washed and became such humans.
Gut eingekauft REWE Verlag)
Bier Jenseits von Hopfen und Malz tac giả
Christian Rätsch
Các trang on-line về Bier
Universal Lexikon & English-German Dictionary
Lexikon der offiziellen Arzneipflanzen