CẢI CÁCH
RUỘNG ĐẤT TRONG LỊCH SỬ
Trần Gia Phụng
Cuộc cải cách ruộng đất
(CCRĐ) của cộng sản Việt Nam (CSVN) bắt đầu từ năm 1949 đến năm 1956, diễn
ra ở Bắc Việt Nam. Sách báo đã viết
nhiều về CCRĐ, về phương pháp CCRD, về tội ác của Hồ Chí Minh (HCM) và CSVN
trong CCRĐ. Bài nầy xin đặt lại cuộc
CCRĐ trong khung cảnh lịch sử hiện đại
1.- TRƯỚC KHI CẢI CÁCH RUỘNG
ĐẤT
Sau thế chiến thứ hai, tại
Bắc Kỳ, mặt trận Việt Minh (VM) do đảng CS chỉ huy nhanh tay cướp chính
quyền và lập chính phủ tại Hà Nội ngày 2-9-1945 do HCM lãnh đạo. Trong khi đó, Pháp trở lui Việt Nam,
chiếm Nam Kỳ rồi tiến ra Bắc Kỳ. Hồ
Chí Minh liền thỏa hiệp với Pháp, ký hiệp ước Sơ bộ (6-3-1946) tại Hà Nội và Tạm ước (14-9-1946) tại Paris, hợp thức hóa sự hiện diện của
Pháp ở Việt Nam.
Pháp càng ngày càng áp lực VM
và đòi kiểm soát an ninh Hà Nội, thì VM bất ngờ tấn công Pháp tối
19-12-1946, để lãnh đạo VM có lý do chính đáng trốn khỏi Hà Nội, tránh bị
Pháp bắt. Việt Minh và HCM để lại Hà
Nội 4,000 quân tự vệ nhằm bảo vệ Hà Nội chống Pháp, thực chất là cầm chân quân
đội Pháp tại đây để lãnh đạo VM có thời giờ trốn chạy vào các chiến khu
trên rừng núi. Quân tự vệ chiến đấu
anh dũng, trong từng ngôi nhà được gần 2 tháng, cầm cự cho đến ngày
17-2-1947 mới hoàn toàn rút lui. Đây
cũng là kế hoạch của HCM và VM, vì cuộc chiến đấu trong gần 2 tháng đã làm
cho Hà Nội sụp đổ, nhà cửa hư hại. Dân
Hà Nội bỏ chạy lánh nạn chiến tranh, về vùng nông thôn lân cận do VM kiểm
soát. Việc làm cho Hà Nội sụp đổ
hoang tàn đúng theo “Lời kêu gọi đồng bào phá hoại để kháng chiến” do HCM đưa
ra ngày 16-1-1947, một tháng trước khi cuộc chiến đấu ở Hà Nội chấm dứt. (Hồ Chí Minh toàn tập tập 5, Hà Nội: Nxb.
Chính Trị Quốc Gia, 2000, tt. 25-26.)
“Lời kêu gọi đồng bào phá hoại để kháng chiến” chính là kế hoạch
“tiêu thổ kháng chiến”, với những khảu hiệu “Phá hoại để kháng chiến”, “Tản
cư cũng là kháng chiến” “Vườn không nhà trống”.
2.- CÁC GIAI ĐOẠN CẢI CÁCH
RUỘNG ĐẤT
Chủ trương “Vườn không nhà trống”
không hiệu quả đối với quân Pháp vì quân Pháp được tiếp liệu dồi dào từ Nam
Việt Nam. Ngược lại “vườn không nhà
trống” làm cho dân chúng thêm nghèo đói trong chiến tranh, không có lúa gạo
mà ăn, lấy thực phẩm đâu mà nuôi quân CS?
Lương thực nuôi quân càng ngày càng cạn kiệt, nên CSVN mở ra kế
hoạch CCRĐ bằng sắc lệnh số 78/ SL ngày 14-7-1949, rất nhẹ nhàng để nông dân
cày bừa, tăng gia sản lượng nông nghiệp.
Đây là giai đoạn CCRĐ lần thứ nhứt.
Giai đoạn thứ hai vào năm
1950, CSVN ra sắc lệnh số 20/ SL ngày 12-2-1950, tổng động viên toàn bộ
"nguồn nhân lực [người], vật lực [gia súc, nông cụ] và tài lực [tiền bạc] cho tổ quốc". Tiếp đó, ngày 22-5-1950, xuất hiện cùng
một lúc hai sắc lệnh CCRĐ số 89/FL và số 90/ FL, vẫn chưa nặng nể.
Giai đoạn CCRĐ thứ ba bắt đầu
bằng sắc lệnh ngày 20-4-1953, đăng trên Công
báo CSVN ngày 20-5-1953. Giai
đoạn thứ tư vào cuối năm 1953, CSVN ra sắc lệnh CCRĐ ngày 4-12-1953 gồm 3
phần, 12 đề mục và 38 điều khoản.
Vào giữa năm 1954, nước Việt
Nam bị chia hai sau Hiệp định Genève
(20-7-1954). Cộng sản Việt Nam ở
phía bắc và Quốc Gia Việt Nam ở phía nam vĩ tuyến 17. Sau khi tái tổ chức chính quyền, tạm ổn
định tình hình, HCM ký sắc luật về CCRĐ giai đoạn thứ 5 ngày 14-6-1955, rất
cứng rắn so với các sắc luật trước. (Lâm Thanh Liêm, Chính sách cải cách ruộng đất Việt Nam (1954-1994), Paris: Nhà
sách và xuất bản Nam Á, 1995, tr. 14.)
Sau những cuộc thảm sát “long trời lỡ đất”, CCRĐ đợt 5 của CSVN chấm
dứt ngày 20-7-1956.
3.- CỘNG SẢN CÀNG THÀNH CÔNG,
CCRĐ CÀNG CỨNG RẮN
Các giai đoạn CCRĐ chẳng
những khác nhau về nội dung cải cách mà quan trọng hơn là khác nhau về cách
thi hành CCRĐ. Đặc biệt, CS càng
thành công trên chiến trường thì CCRĐ càng cứng rắn.
Trong chiến tranh, khi thiếu
lương thực nuôi quân, CSVN mở cuộc CCRĐ một cách nhẹ nhàng, bằng sắc lệnh
số 78/ SL ngày 14-7-1949, thành lập "Hội đồng giảm tô", giảm
thiểu đồng bộ tiền thuê đất, nhằm khuyến khích nông dân ra sức cầy bừa,
tăng gia sản lượng nông nghiệp, cung ứng nhu cầu đội quân CS càng ngày càng
đông.
Từ năm 1950, CSVN được Trung
Cộng viện trợ võ khí, quân nhu, quân dụng và cả kinh tế nữa. Cộng sản bắt đầu chuyển qua phản công
trong chiến tranh. Từ đó, CSVN cần
thêm nhân lực, tăng cường quân đội, dân công tải đạn... Vì vậy gọi là để tiếp tục công cuộc CCRĐ,
CSVN ra sắc lệnh số 20/ SL ngày 12-2-1950, tổng động viên toàn bộ "nguồn nhân lực [người], vật lực [gia súc, nông cụ] và tài lực [tiền bạc] cho tổ quốc". Nhờ đó, CSVN dễ bắt lính, đưa cả phụ nữ
đi dân công, tải đạn. Kế hoạch đưa phụ
nữ đi dân công do tướng Trần Canh đưa ra khi qua làm cố vấn cho HCM năm
1950. (Trương Quảng Ba, “Quyết sách trọng đại Trung Quốc viện trợ Việt Nam
chống Pháp”, đăng trong Hồi ký của
những người trong cuộc…”, Nxb. Lịch sử đảng Cộng Sản Trung Quốc, 2002,
Dương Danh Dy dịch, tr. 23.)
Trong thời gian từ 1951 đến
1953, phương pháp CCRĐ cứng rắn dần, nhất là trong các vùng hoàn toàn do CS
kiểm soát. Tuy nhiên, CS còn dè dặt,
e ngại tiếng đồn trong quần chúng lan rộng, khiến người ta sợ hãi, bỏ vùng
CS mà “dinh tê”, về vùng do chính thể Quốc Gia kiểm soát, hoặc di cư vào
Nam năm 1954.
Ngày 20-7-1954, hiệp định Genève được ký kết. Đảng CSVN làm chủ miền bắc vĩ tuyến 17. Ngay khi vừa về Hà Nội ngày 15-10-1954,
CSVN ra các quy định nghiêm cấm báo chí: "Không được chống chính phủ và chế độ; không được xúi giục nhân dân
và bộ đội làm loạn; không được nói xấu các nước bạn; không được tiết lộ các
bí mật quân sự; không được đăng bài vở có phương hại đến thuần phong mỹ tục."
(Hoàng Văn Chí, Trăm hoa đua nở trên
đất Bắc, Mặt trận Bảo vệ Tự do Văn hóa, Sài Gòn 1959, tr. 31.)
Nắm vững ngành truyền thông,
không còn lo ngại dân chúng Bắc Việt có thể thông tin liên lạc với bên
ngoài lãnh thổ, CSVN mở lại cuộc CCRĐ “long trời lỡ đất”, tự do hoành hành
bằng phương pháp tàn bạo bất nhân nhất trong lịch sử Việt Nam. Điều mà dân chúng rất lo sợ trong CCRĐ
lần nầy là bị quy vào thành phần địa chủ và bị đưa ra đấu tố trước tòa án
nhân dân (TAND).
Cuộc đấu tố bắt đầu bằng đấu
lý, rồi đấu lực, đấu pháp và đấu ảnh.
Đấu ảnh khá lạ lùng trong lịch sử tòa án, xảy ra trong trường hợp
nạn nhân đã chết. Đội CCRĐ đem hình
ảnh hay một vật dụng tượng trưng (áo, quần...) của nạn nhân để đấu tố. Nhân vật bị đấu ảnh nổi tiếng nhứt là nhà
cách mạng Phan Bội Châu. Ảnh của ông
bị đem ra đấu tố, rồi vứt ảnh vào chuồng trâu. (Theo lời kể của đại tá cộng sản Phan
Thiệu Cơ (cháu nội Phan Bội Châu) do Phan Thiện Chí viết lại trên báo Kiến Thức Ngày Nay số 50, Tp.HCM
ngày 15-12-1990. Ngoài ra, Lê Nhân
cũng kể lại việc nầy trong thư viết từ Hà Nội ngày 05-12-2005 gởi cho Phan
Văn Khải, lúc đó là thủ tướng CS. (Đàn Chim Việt ngày 5-12-2005.) (Người viết cũng được cháu nội Phan Bội
Châu ở Canada xác nhận điều nầy khi gặp nhau ở Toronto năm 2006.)
Các biện pháp trấn áp, tra
tấn, bắt đầu từ bỏ đói, bỏ khát, phơi nắng, phơi mưa, mắng chửi, hành hạ,
nhục hình, thậm chí đào một cái hố, bắt nạn nhân nằm xuống, rồi bắt dân
chúng tiểu và đại tiện lên nạn nhân, giựt tóc, đánh đập, gìm nước (rồi kéo
lên cho tỉnh lại), dùng tre nhọn xuyên thủng tay chân, thân thể. Có khi đội CCRĐ chôn nạn nhân xuống đất,
chừa cái đầu lên trên, dùng bò kéo lưỡi cày có răng nhọn ngang qua đầu nạn
nhân cho đến chết. Nhiều nạn nhân
chứng kiến các cuộc trấn áp dã man, sợ quá, lên cơn đau tim chết, hoặc tìm
cách tự tử để khỏi bị hành hạ.
Kết quả theo một tài liệu
trong nước, trong cuộc CCRĐ đợt 5 (1955-1956), tổng số người bị quy và bị
giết thuộc thành phần địa chủ trong CCRĐ là 172,008 người. Tài liệu nầy cho biết 123,266 người tức
tỷ lệ 71,66% bị quy sai. (Đặng
Phong, Lịch sử kinh tế Việt Nam tập
II, 1955-2000, Hà Nội: Nxb.Khoa Học Xã Hội, 2005, tr. 85.) Đó mới chỉ là thiệt hại nhân mạng. Quan trọng hơn nữa là lần nầy, do tự do
hoành hành, cuộc CCRĐ hết sức khốc liệt, đẵm máu, vô luân, đảo lộn văn hóa,
đạo lý, đúng là “bại nhân nghĩa, nát
cả càn khôn”. (Lời Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô đại cáo”.)
4.- TRUNG CỘNG HAY CSVN ĐỘC ÁC?
Theo dõi diễn tiến các cuộc
CCRĐ, điểm dễ nhận thấy là trong hai đợt CCRĐ đầu tiên (1949 và 1950), CSVN
thực hiện CCRĐ để phục vụ nhu cầu lương thực, nuôi quân trong hoàn cảnh
chiến tranh. Sau đó, CSVN thực hiện
CCRĐ theo bài bản “thổ cải” của Trung Cộng.
Nguyên vào đầu năm 1950, Hồ Chí Minh qua Trung Cộng và Liên Xô xin
viện trợ. Stalin giao cho Mao Trạch
Đông giúp đỡ CSVN. Từ đó, Trung Cộng
viện trợ và đáp ứng tối đa cho nhu cầu của CSVN, viện trợ võ khí, quân nhu,
quân dụng, kinh tế, cả cố vấn quân sự và cố vấn chính trị, trong đó có cả
cố vấn CCRĐ.
Sau Đại hội 2 tại Tuyên Quang
ra mắt đảng Lao Động (từ 11 đến 19-2-1951), CSVN cử người sang Trung Cộng
tham dự khóa học tập về chủ nghĩa Mác-Lê tổ chức tại Bắc Kinh, nhưng chính
là để học phương thức CCRĐ theo đường lối “thổ cải” của Trung Cộng. (Nguyễn
Văn Trấn, Viết cho mẹ và quốc hội,
Nxb. Văn Nghệ [tái bản], California, 1995, tr. 164.)
Theo các cố vấn Trung Cộng,
Mao Trạch Đông đã nói “... Cái cây nó
cong về bên hữu, ta muốn uốn nó cho ngay thì tất nhiên là phải bẻ cong nó
qua về bên tả, bên trái. Buông ra nó
trở lại là vừa.” Các cố vấn
Trung Cộng còn cho rằng: “Không sợ quá trớn. Có quá trớn mới bớt lại mà ngay
được. Đấu tranh ruộng đất là một
cuộc cách mạng kinh thiên động dịa.
Trong một cuộc đảo lộn lớn lắm của cuộc sống, có người chưa quen, họ
kêu. Không có gì lạ cả. Ta đánh họ đau mà họ không kêu, đó mới
đáng lấy làm lạ chớ... Một xã có
từng nầy bần cố nông thì theo kinh nghiệm Trung Quốc, nhất định phải có
bằng nầy địa chủ...” (Nguyễn Văn Trấn, sđd. tr. 166.) Từ đó
cuộc CCRĐ của CSVN trở nên cứng rắn, sắt máu như mọi người đều biết. Vì vậy, nhiều người cho rằng Hồ Chí Minh
và CSVN thực hiện CCRĐ giai đoạn thứ 5 tàn bạo theo mô thức Trung Cộng vì
do sức ép của Trung Cộng.
Điều nầy không ai phủ
nhận. Tuy nhiên, nhìn thật kỹ từ
phía CSVN, bản thân Hồ Chí Minh và nhóm lãnh đạo CSVN chẳng những rất ưng ý
mô thức tàn bạo của Trung Cộng, mà còn cố tình làm mạnh hơn, không phải chỉ
vì CSVN vâng lời Trung Cộng, mà chính vì bản chất gian ác, Hồ Chí Minh và
CSVN tự ý cố tình làm như thế. Vì
vậy, không thể nói cuộc CCRĐ ác độc là do lệnh của cố vấn Trung Cộng, mà
còn vì sự ác độc thú tính của Hồ Chí Minh và lãnh đạo CSVN.
5.- ĐẤT ĐAI CỦA TOÀN DÂN DO
NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ
Âm mưu chính của CSVN là muốn
xóa bỏ quan niệm tư hữu đất đai thâm căn cố đế của nông dân Việt Nam, là
giới rất bảo thủ và thủ cựu, đồng thời CSVN muốn áp đặt nền nông nghiệp chỉ
huy của chế độ CS, thực hiện chủ trương đất đai thuộc “quyền sở hữu của
toàn dân, do nhà nước quản lý”. Xin
hãy chú ý đến tổ chức hợp tác xã nông nghiệp (HTXNN) do CS bày ra sau
CCRĐ. Sau CCRĐ, CSVN chia đất cho
nông dân cày cấy, nhưng nông dân chưa kịp mừng vui, thì CSVN tổ chức HTXNN,
lùa nông dân vào HTX, buộc nông dân đem đất đã được chia và cả đất riêng
nhỏ nhoi do tổ tiên để lại, gia nhập vào đất HTX do nhà nước quản lý. Từ đây, nông dân hoàn toàn tay trắng,
chẳng còn đất đai, chỉ làm công cho HTX tức cho nhà nước CSVN, nghĩa là
CSVN chẳng những ăn cướp đất của địa chủ, phú nông mà ăn cướp cả đất của nông
dân nghèo khổ hết sức bài bản vào tay CSVN.
Một khi đã quản lý đất đai
canh tác ở nông thôn, đảng Lao Động (LĐ) quản lý luôn kho lúa gạo toàn dân,
nghĩa là dễ dàng làm chủ nền kinh tế nước nhà, bởi vì nền kinh tế Việt Nam
lúc đó hoàn toàn dựa trên nông nghiệp.
Quản lý lương thực đồng thời, còn giúp quản lý hộ khẩu (gia đình) vì
gạo bán theo sổ hộ khẩu. Đó là lý do
chính của cuộc CCRĐ giai đoạn thứ 5 vào năm 1955.
6.- THIẾT LẬP HỆ THỐNG LÃNH ĐẠO
CS Ở NÔNGTHÔN
Âm mưu thứ hai là cuộc CCRĐ
nhắm xóa bỏ hệ thống cấu trúc xã thôn cũ và thay bằng lãnh đạo CS. Tổ chức xã thôn Việt Nam có từ lâu đời và
rất phức tạp, gồm có (bất thành văn):
Ban cố vấn, Hội đồng kỳ mục, và Hương hội. Tổ chức xã thôn cũ còn có đặc tính chung
là tự trị. Tục ngữ có câu: “Luật vua thua lệ làng”. Chẳng những tự trị, sinh hoạt xã thôn rất
dân chủ. Các việc quan trọng trong
làng đều được đem ra bàn bạc trong các kỳ họp hằng tháng tại đình làng để
hỏi ý dân. Điều nầy đi ngược lại với
lối cai trị độc tài của CS. Do đó, CCRĐ
với những màn đấu tố dã man nhằm xóa bỏ hẳn cấu trúc xã thôn với những tổ
chức và nấc thang giá trị văn hóa cũ, để thay thế bằng tổ chức xã thôn mới,
hoàn toàn thuộc quyền kiểm soát của cán bộ đảng viên CS. Giới lãnh đạo xã thôn cũ lại là giới khá
giả trong làng, có ít nhiều ruộng đất, nên dễ bị CS quy vào thành phần địa
chủ, và trở thành đối tượng đấu tố trong cuộc CCRĐ do đội CCRĐ đưa ra đấu
tố, đúng theo chủ trương: “Trí, phú,
địa, hào; đào tận gốc, trốc tận rễ”, mà cộng sản quyết tâm càn quét
toàn bộ giới lãnh đạo cũ trong làng.
7.- CHUẨN BỊ TẤN CÔNG NAM
VIỆT NAM
Âm mưu thứ ba là CSVN tổ chức
thanh lọc kỹ càng dân chúng Bắc Việt Nam, ổn định tuyệt đối nông thôn Bắc
Việt Nam. Hồ Chí Minh vốn là một
gián điệp của Đệ tam Quốc tế Cộng sản, đã học ngành tình báo tại Moscow
(Liên Xô). Sau năm 1954, Hồ Chí Minh
và CSVN lo sợ chính phủ Quốc Gia Việt Nam và các tổ chức hay đảng phái theo
chủ nghĩa dân tộc hoặc các tôn giáo, gài người ở lại đất Bắc sau hiệp định Genève. Xa hơn, CSVN nghi ngờ các thế lực thù
địch cho người trà trộn trong nhóm miền Nam tập kết ra Bắc để phá hoại hoặc
làm tình báo. Vì vậy, tiến hành CCRĐ
là phải truy xét, soi rọi lý lịch ba đời nông dân, điều tra cặn kẽ, không
bỏ sót bất cứ một gia đình hay nhân vật nào bị nghi ngờ có thể nằm trong
mạng lưới điệp viên của miền Nam.
Cuộc CCRĐ áp đặt nông thôn
Bắc Việt Nam với khoảng 70% dân số, dưới quyền thống trị của CSVN,
mở đầu cho kế hoạch áp đặt sự
toàn trị của CSVN ở Bắc Việt Nam sau 1954, bằng việc cải cách công thương
nghiệp ở thành phố, khóa sổ báo chí (vụ Nhân Văn Giai phẩm) và thanh trừng
nội bộ đảng CSVN (Vụ án chống đảng), đi đến chỗ ổn định tuyệt đối Bắc Việt
Nam, nhằm chuẩn bị tấn công Nam Việt Nam.
8.- ĐOẠN KẾT CCRĐ: THỜI CƠ CHO
LÊ DUẪN
Trong khi đó, Lê Duẫn đứng
đầu Trung ương cục miền Nam (đổi thành Xứ ủy Nam Bộ tháng 10-1954, rồi trở
lại TƯCMN tháng 1-1961). Lê Duẫn đã dày công xây dựng cơ sở CS ở
miền Nam trong thời gian chiến tranh (1946-1954). Tuy nhiên, thành tích nầy không sáng chói
bằng giới lãnh đạo CS ở miền Bắc. Vì
vậy sau năm 1954, Lê Duẫn trốn lại ở
miền Nam, quyết chí đánh miền Nam, vì nếu CSVN đánh miền Nam, thì quyền
lãnh đạo chiến tranh chắc chắn phải vào tay Lê Duẫn. Vì tham vọng quyền lực, nên Lê Duẫn nóng
lòng đánh miền Nam, nhằm tạo hào quang cho chính mình.
Điểm đáng chú ý là tuy phản
ứng của dân chúng đối với sự tàn bạo của cuộc CCRĐ năm 1956 bị dẹp yên, nhưng
để lấy lòng dân chúng, hội nghò Trung öông ñaûng LÑ laàn thöù 10 töø thaùng
9 ñeán thaùng 11-1956, quyết định Trường Chinh, trưởng ban chỉ đạo CCRĐ
trung ương, rời chức tổng bí thư đảng LĐ tuy vẫn còn trong Bộ chính trị. Hồ Chí Minh, chủ tịch đảng LĐ, kiêm nhiệm
chức vụ nầy.
Lúc đó, Lê Duẫn đang nằm vùng
ở miềnNam, không lãnh đạo CCRĐ giai đoạn 5 ở ngoài Bắc, không bị tai tiếng
vì vụ CCRĐ, nên được gọi về Hà Nội ngày 4-7-1957, giữ chức ủy viên thường
vụ bộ chính trị đảng LĐ, phụ tá cho Hồ Chí Minh. Sau đó, đại hội III đảng LĐ từ 5-9 đến
10-9-1960 bầu Lê Duẫn làm bí thư thứ nhất (không phải là tổng bí thư) thay
Trường Chinh. Như thế có nghĩa là kết
cục của CCRĐ năm 1956 tạo cơ hội cho Lê Duẫn thay Trường Chinh. Nhờ đó Lê Duẫn thăng tiến nhanh chóng.
Ngày nay, một số người cho rằng
việc CCRĐ do Hồ Chí Minh chủ trương, còn việc tấn công Nam Việt Nam do Lê
Duẫn thúc đẩy, Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp không muốn đánh Nam Việt Nam
(?). Xin lưu ý một điểm quan trọng:
chủ trương tấn công Nam Việt Nam do chính Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đưa
ra đầu tiên tại hội nghị Liễu Châu (Quảng Tây) từ 3 đến 5-7-1954 với thủ
tướng Trung Cộng là Chu Ân Lai, trước khi hiệp định Genève được ký kết. Lúc
đó Lê Duẫn còn ở trong Nam và không tham dự hội nghị nầy. Như vậy, không thể nói là Hồ Chí Minh
không chủ trương tấn công Nam Việt Nam mà phải khẳng định chắc chắn rằng
chủ trương tấn công miền Nam là do tham vọng của Hồ Chí Minh và toàn thể
tập đoàn lãnh đạo CSVN, muốn thống trị toàn cõi Việt Nam. Cấp bậc càng cao, trách nhiệm và tội lỗi
càng nhiều.
KẾT LUẬN
Đặt các giai đoạn CCRĐ từ
1949 đến 1956 trong khung cảnh lịch sử, những điểm dễ thấy là: 1) Nội dung
và phương pháp các giai đoạn CCRĐ do CS thực hiện thay đổi theo hoàn cảnh
chiến tranh. Lúc đầu (năm 1949), nhẹ
nhàng để tăng gia lương thực nuôi quân, rồi khi CS siết chặt vùng cai trị,
thì CCRĐ cứng rắn dần dần, và trở nên tàn bạo theo sự thành công của CS
trên chiến trường. Cuộc CCRĐ lên cực
điểm dã man sau khi CSVN chiếm được miền Bắc Việt Nam sau hiệp định Genève ngày 20-7-1954. 2) CCRĐ khốc liệt không phải chỉ do sự
chỉ đạo và hỗ trợ của cố vấn Trung Cộng, mà do chính lãnh đạo CSVN tự ý muốn
đẩy mạnh CCRĐ đến độ tàn bạo để thực hiện chủ quyền và chủ thuyết CS.
3) CCRĐ nằm trong tiến trình của CSVN cải đổi nền nông nghiệp tư
nhân tự do qua nông nghiệp chỉ huy của CS theo chủ trương “đất đai là tài
sản của toàn dân do nhà nước quản lý”. 4) CCRĐ nhắm xóa bỏ hệ thống lãnh đạo
xã thôn cũ và thay bằng lãnh đạo của CSVN. 5) CCRĐ cấp bách ổn định Bắc
Việt Nam, để tiến hành chiến tranh xâm lăng Nam Việt Nam của giới lãnh đạo
CSVN. 6) Kết cục của CCRĐ đưa đến sự thoái lui tạm
thời của Trường Chinh, lý thuyết gia hàng đầu của CSVN, tạo thời cơ cho Lê
Duẫn tiến lên.
Cuối cùng, một kẻ giấu mặt
trong CCRĐ là Trung Cộng. Trung Cộng
xúi giục CSVN thực hiện CCRĐ một cách tàn bạo, vì Trung Cộng ngầm chủ trương
tàn phá Việt Nam. Việt Nam càng bị
tàn phá, càng yếu kém, thì càng có lợi cho Trung Cộng.
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 23-9-2014)
|