ĐẠI
NẠN TRUNG HOA: BÍ MẬT THÀNH ĐÔ Trần Gia Phụng Tình
hình các nước cộng sản (CS) trên thế giới
xoay chuyển mạnh vào cuối thập niên 80 và đầu
thập niên 90. Các chế độ CS ở
Đông Âu như Poland (Ba Lan), Hungary (Hung Gia Lợi), Bulgaria (Bảo
Gia Lợi),Tchecoslovaquia (Tiệp Khắc), German Democratic
Republic (Cộng Hòa Dân Chủ Đức) hay East Germany
(Đông Đức), Yugoslavia (Nam Tư) lần lượt
tan rã vào các năm 1989 và 1990. Sau đó, cộng sản Liên Xô, chế độ
hậu thuẫn vững vàng cho Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), cũng sụp đổ
năm 1991. Ngay
khi nhận được tin tức phong trào CS Đông Âu yếu
thế, lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt
Nam (CSVN) liền quay qua làm thân trở lại với Trung Cộng,
nhượng bộ Bắc Kinh, ra lệnh cho bộ đội
CSVN không được nổ súng khi quân Trung Cộng đến
chiếm Gạc-Ma (trong quần đảo Trường Sa)
năm 1988. Đang
là đồng chí với nhau, còn được Trung Cộng
viện trợ tối đa để thành công trong hai cuộc
chiến từ 1946 đến 1975, lại phủi tay, bỏ
chạy theo Liên Xô, hy vọng vỗ nợ (xù nợ), nên
CHXHCNVN bị Trung Cộng dạy cho một bài học nhớ
đời năm 1979, rồi đả kích nhau thậm tệ
trên chính trường quốc tế, mà nay CSVN phải nhẫn
nhục quay lại cầu thân, thì chỉ còn cách xuống
nước, nhượng bộ.
Năm 1990. bầu
đoàn chóp bu CSVN dẫn nhau qua tham dự hội nghị
Thành Đô do Trung Cộng triệu tập. Thành
Đô (Chengdu) là tỉnh lỵ tỉnh Tứ Xuyên (Sichuan), ở
tây nam Trung Hoa. Tài liệu CSVN nói rằng cuộc
họp nầy nhằm mục đích bình thường hóa
bang giao giữa hai nước CHXHCNVN và Trung Cộng,
nhưng thực chất là CHXHCNVN lo sợ làn sóng CS sụp
đổ ở các nước Đông Âu, sẽ làm lung lay
chế độ CSVN, nên quay qua xin nương tựa Trung
Cộng để tồn tại mà thôi. Hội
nghị Thành Đô diễn ra trong hai ngày 3 và 4-9-1990.
Về phía Việt Nam, những người tham dự
gồm có: Nguyễn Văn Linh (tổng bí thư
đảng CSVN) Đỗ Mười (ủy viên bộ
chính trị đảng CSVN, chủ tịch Hội đồng
bộ trưởng), và Phạm Văn Đồng (cố vấn
Ban chấp hành Trung ương đảng CSVN). Phía Trung Cộng có Giang
Trạch Dân
(tổng bí thư đảng
CSTH), Lý Bằng (ủy viên Bộ chính trị
đảng CSTH, thủ tướng Quốc vụ viện
Trung Cộng). Hội nghị chỉ gồm
5 kẻ lãnh đạo cao nhứt của hai đảng CS,
không có chuyên viên phụ tá nhằm thảo luận những
vấn đề chuyên biệt. Hội nghị bàn những gì, kết quả
như thế nào, hoàn toàn không có thông báo hay văn bản nào
được đưa ra công khai. Xin chú ý các điểm sau đây: -
Đây
không phải là cuộc họp và thỏa thuận giữa hai
chính phủ Trung Cộng và CHXHCNVN, vì nếu giữa hai chính
phủ, thì kết quả phải được
đưa ra trước Quốc hội hai nước duyệt
phê. -
Cuộc
họp chỉ có lãnh đạo mà không có phụ tá và chuyên
viên, trong thời gian ngắn hạn (hai ngày), nên chỉ có
thể thỏa thuận những chủ đề hay đề
mục (topic) tổng quát, còn phần triển khai thì sẽ
có những cuộc họp về sau. -
Nội
dung cuộc họp giữa lãnh đạo hai đảng CS
được giữ bí mật tuyệt đối. Năm 2014, khoảng 20 cựu tướng
lãnh và sĩ quan, trong đó có cựu trung tướng Lê Hữu Ðức,
các cựu thiếu
tướng Trần Minh Ðức, Huỳnh Ðắc
Hương, Lê Duy Mật, Bùi Văn Quỳ, và Nguyễn Trọng
Vĩnh, viết
kiến nghị ngày 2-9-2014 cho Trương Tấn San (chủ
tịch nước) và Nguyễn Tấn Dũng (thủ
tướng) yêu cầu công khai mật ước Thành
Đô, nhưng không có kết quà.
(BBC News-Tiếng Việt
ngày 4-9-2014, “Lãnh đạo Việt Nam cần biết rõ bạn
và thù”.) -
Tất
cả những bài viết về kết quả hội nghị
Thành Đô trên báo chí đều là dự đoán, kể cả
việc dự đoán năm 2020, Việt Nam sẽ thành khu
tự trị của Trung Cộng. -
Vì
không công khai, giữ
bí mật, nên kẻ mạnh (Trung Cộng) tùy tiện
giải thích mật nghị theo ý muốn của Trung Cộng,
mà kẻ yếu (CHXHCNVN) phải im lặng chịu đựng
và chấp nhận. -
Vì
là kẻ yếu xin quy hàng để chế độ
được tồn tại, nên đảng CSVN phải
nhượng bộ. Đảng
CSVN và công cụ là nhà cầm quyền CSVN có gì để
nhượng bộ, ngoài một vấn đề mà từ
trước đến nay, tất cả những nhà cầm
quyền Trung Hoa, chứ không riêng Trung Cộng, luôn luôn nhắm
đến là lấn biên giới, chiếm đất
đai, giành biển cả, tìm đường xuống
Đông Nam Á. -
Đảng
CSVN nhượng bộ để tồn tại, nhượng
đất, nhượng biển, nhưng khổ nỗi là
dân tộc Việt Nam phải chịu thiệt thòi, gánh lấy
sự nhượng bộ đó, mất đất, mất
biển. Nội
dung mật ước
Thành Đô 1990 không được tiết lộ. Sau đó, lần
lượt xảy ra những sự kiện dưới
đây. Phải
chăng đây là kết quả từ những chủ
đề của hội nghị Thành Đô? 1.-
CHXHCNVN SỬA ĐỔI HIẾN PHÁP Sau
chiến tranh biên giới Việt Hoa năm 1979, CHXHCNVN thay
đổi hiến pháp năm 1980.
Trong “Lời nói đầu”
của bản hiến pháp 1980, có đoạn kết án Trung
Cộng như sau: “Phát huy truyền
thống vẻ vang của dân tộc, quân và dân ta đã giành
được thắng lợi oanh liệt trong hai cuộc
chiến bảo vệ tổ quốc chống bọn phản
động Cam-pu-chia ở biên giới Tây-Nam và chống bọn bá quyền Trung
–quốc ở biên giới phía bắc, bảo vệ
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của mình.” (Người
viết in đậm.) Hiến
pháp nầy được quốc hội CHXHCNVN thông qua
ngày 18-12-1980 và chủ tịch nước là Nguyễn Hữu
Thọ công bố ngày 19-12-1980 Không
kể lời nói đầu, hiến pháp năm 1980 gồm
có 12 chương, 147 điều, trong đó chương I,
điều 14 ghi rằng: "Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tăng
cường tình hữu nghị anh em, tình đoàn kết chiến
đấu và quan hệ hợp tác về mọi mặt với
Liên-xô, Lào, Căm-pu-chia và các nước xã hội chủ
nghĩa khác trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ
nghĩa quốc tế vô sản…”. (Hai trích dẫn về
hiến pháp 1980: Viện Luật Học, Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam (Bình luận) (Tập II), Hà Nội:
Nxb. Khoa Học Xã Hội, 1985, tr. 432 và tr.436.) Trong
điều 14 nầy, hoàn toàn không nhắc đến Cộng
Hòa Nhân Dân Trung Hoa tức Trung Cộng, là nước CS
đã viện trợ dồi dào cho VNDCCH, tiền thân của
CHXHCNVN từ năm 1949 đến năm 1975. Sau hội nghị Thành Đô
năm 1990, đảng CSVN ra lệnh cho quốc hội
CHXHCNVN soạn lại hiến pháp, loại bỏ những
từ ngữ chống Trung Cộng trong hiến pháp mới. Bản hiến pháp mới
được quốc hội CHXHCNVN thông qua ngày 15-4-1992, và
được chủ tịch nước là Võ Chí Công ban
hành ngay sau đó. Trong “Lời nói đầu”, hiến
pháp 1992 hoàn toàn không đề cập đến việc chống
Trung Cộng và điều 14 chương I rất hòa hoãn
như sau: "Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, mở rộng
giao lưu và hợp tác với tất cả các nước
trên thế giới, không phân biệt chế độ chính
trị và xã hội khác nhau, trên cơ sở tôn trọng
độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
của nhau, không can thiệp vào nội bộ của nhau,
bình đẳng và các bên cùng có lợi…” (Ủy ban về người Việt
Nam ở nước ngoài, Những
văn bản pháp quy của Nhà nướcViệt Nam liên
quan đến người Việt Nam ở nước
ngoài (đến ngày 31-5-1995),
không đề nơi xuất bản, 1995, tr. 15.) Điều 14 nầy chẳng những
không còn phân biệt giữa Trung Cộng và Liên Xô (vì Liên Xô
đã sụp đổ) mà còn mở đường để
mời gọi thương thuyết và giao thương với
Hoa Kỳ và các nước Tây phương. Sửa
đổi hiến pháp, bộ luật cao nhứt nước,
có nghĩa là thay đổi toàn bộ chính sách đối nội
cũng như đối ngoại của đất nước.
Từ đây, Trung Cộng là cái gì cao cả thiêng liêng đối
với CSVN, đến nỗi những người viết
bài, viết blog, biểu tình vì yêu nước, chống ngoại
xâm, chống sự xâm nhập của Trung Cộng, liền
bị CSVN thẳng tay đàn áp một cách dã man. Nhà nước CSVN bắt
giam ngay tất cả những ai biểu lộ thái độ
chống Trung Cộng, mở đầu là luật sư Lê
Chí Quang. Tháng 10-2001, luật
sư Quang phổ biến bài viết “Hãy cảnh giác với
Bắc triều”, thì bị tuyên án 4 năm tù giam, 3 năm quản
thúc. 2.-
HAI HIỆP ĐỊNH VỀ
BIÊN GIỚI VÀ LÃNH HẢI Vấn
đề biên giới Việt Hoa cả hàng ngàn năm lịch
sử cũng chưa giải quyết dứt khoát.
Thế mà sau khi đầu phục Trung Cộng năm
1990, CSVN vội vàng ngồi vào đàm phán và ký kết liên tiếp
hai hiệp ước về biên giới trên đất liến
và ngoài biển cả, hoàn toàn bất lợi cho Việt Nam. Ngày
30-12-1999, tại Hà Nội, bộ trưởng Ngoại giao
CHXHCNVN là Nguyễn Mạnh Cầm cùng bộ trưởng
Ngoại giao Trung Cộng là Đường Gia Truyền
(Tang Jianxuan) ký kết Hiệp
ước về biên giới trên đất liền Việt
Nam – Trung Quốc. Hiệp ước nầy được quốc
hội Bắc Kinh thông qua ngày 29-4-2000 và quốc hội Hà Nội
thông qua ngày 9-6-2000. Đặc
biệt khi thông qua hiệp ước về biên giới nầy,
chỉ một số lãnh đạo cấp cao trong quốc
hội được đọc nội dung hiệp ước,
còn đại đa số dân biểu không biết gì cả,
chỉ thông qua theo lệnh của đảng CSVN mà thôi. (Người Việt
Online ngày 25-01-2002, mục “Tin Việt Nam.) Nhà
nước CS bưng bít che giấu nội dung hiệp
ước, nhưng dần dần, dân chúng được
biết rằng Việt Nam bị mất nhiều đất
dọc theo biên giới Viet-Hoa, đặc biệt đoạn
đường đèo Nam Quan và phần ải Nam Quan do Việt Nam
xây dựng, đã mất vào tay Trung Cộng. Đây là đoạn đường
đèo chiến lược gây cản trở các cuộc xâm
lăng của Bắc phương. Qua khỏi ngọn đèo mầy,
quân xâm lăng loại bỏ được
chướng ngại đầu tiên mà tổ tiên họ
đã tốn biết bao nhiêu xương máu để
vượt qua, nhưng đều bị đẩy lui. Một
năm sau, ngày 25-12-2000, tại Bắc Kinh, đại diện
CHXHCNVN, bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên và đại
diện Trung Cộng, bộ trưởng Ngoại giao
Đường Gia Truyền cùng ký kết Hiệp ước phân định lãnh hải, phân
chia quyền lợi trên vịnh Bắc Việt dưới
sự chứng kiến của chủ tịch nhà nước
CHXHCNVN là Trần Đức Lương và chủ tịch
Trung Cộng là Giang Trạch Dân.
Hiệp ước nầy được
quốc hội CHXHCNVN thông qua ngày 15-6-2004 và có hiệu lực
từ 30-6-2004. Theo
tài liệu của CSVN, vịnh Bắc Việt rộng
123,700 Km2. Trước đây, cách phân chia
lãnh hải với nhà Thanh (Trung Hoa) ngày 26-6-1887 thời Pháp
thuộc, Việt Nam được 62%, còn Trung Hoa
được 38% vịnh Bắc Việt. Cách phân chia lãnh hải vịnh Bắc
Việt mới giữa CSVN và Trung Cộng, Việt Nam
được 53.23%, Trung Cộng được 46.77%, nghĩa
là Việt Nam mất trên 8% diện tích vịnh Bắc Việt,
tương đương khoảng 10,000 Km2 mặt biển. Thế mà CSVN khoe rằng Việt
Nam hơn Trung Cộng khoảng 6,46%, tức khoảng 8,205
Km2. (Lê Công Phụng (thứ trưởng bộ Ngoại
giao CHXHCNVN), “Hiệp định phân định vịnh Bắc
bộ và hợp tác nghề cá giữa Việt Nam-Trung Quốc
trong vịnh Bắc bộ”, tạp chí Cộng Sản, Hà Nội, số 2, tháng 01-2001.) 3.-
BÔ-XÍT TÂY NGUYÊN Tây
nguyên là từ ngữ của CS sau năm 1975 để chỉ
vùng cao nguyên Nam Trung phần. Cao nguyên nầy vốn có nhiều tiềm năng
về quặng bô-xít (bauxite), dùng để luyện nhôm. Theo thư của Võ Nguyên Giáp, cựu
đại tướng CSVN, gởi cho Nguyễn Tấn
Dũng, thủ tướng CHXHCNVN,thì: “…
Đầu những năm 1980
chính phủ [CHXHCNVN] đã
đưa chương trình khảo sát khai thác bô-xít trên Tây
Nguyên vào chương trình hợp tác đa biên với khối
COMECON. Tôi [Võ Nguyên Giáp]
được phân công trực tiếp theo
dõi chỉ đạo chương trình này. Sau khảo sát đánh giá hiệu quả tổng
hợp của các chuyên gia Liên Xô, khối COMECON đã khuyến
nghị chính phủ ta không nên khai thác bô-xít trên Tây Nguyên do những
nguy cơ gây tác hại sinh thái lâu dài rất nghiêm trọng,
không thể khắc phục được đối với
dân cư chẳng những tại chỗ mà còn cả dân
cư và vùng đồng bằng Nam Trung Bộ. Chính phủ khi đó đã quyết
định không khai thác bô-xít mà gìn giữ thảm rừng
và phát triển cây công nghiệp (cao su, cà phê, chè...) trên Tây
Nguyên...” (Trích nguyên văn thư ngày
5-1-2009 của Võ Nguyên Giáp đăng lại trên Diễn Đàn Forum.) Theo
ước tính của các chuyên gia Liên Xô, trữ lượng
bô-xít ở Tây nguyên khoảng 8 tỷ tấn. (Nguyễn Tấn
Dũng, thủ tướng CSVN tiết lộ với báo
chí ngày 4-2-2009, do báo Dân Trí đăng lại ngày 5-2-2009.) Sau
khuyến cáo của khối COMECON, dự án
bô-xít Tây nguyên bị nhà nước CHXHCNVN lúc đó đình
chỉ, không thực hiện. Tuy nhiên, sau khi các nước CS Đông Âu sụp
đổ, khối COMECON chấm dứt hoạt động
giữa năm 1991, CSVN mở lại hồ sơ Tây nguyên trong
đại hội 9 đảng CSVN, từ 19-4 đến
22-4-2001. Sau đại hội
10 (từ 18-4 đến 25-4-2006), Nguyễn Tấn Dũng,
thủ tướng CHXHCNVN, ký quyết định số
167 ngày 1-11-2007, duyệt phê kế hoạch thăm
dò, khai thác, chế biến bô xít ở Tây nguyên. Theo tác giả David Pilling, trong bài
“Asia pays tribute to its new superpower” trên báo Financial
Times
ngày 7-5-2009, thì đây là món quà Nguyễn Tấn Dũng
triều cống Trung Cộng trong chuyến công du vừa
qua. Chuyến công du vừa qua
trước bài báo của Pilling là Nguyễn Tấn Dũng
tham dự Diễn đàn châu Á tại Hải Nam, rồi
thăm viếng tinh Quảng Đông, Hồng Kông và Ma Cao
từ 17 đến 21-4-2009. Nguyễn Tấn
Dũng là ủy viên bộ Chính trị đảng CSVN,
thủ tướng CHXHCNVN, nên phẩm vật triều
cống của Dũng phải do lệnh của bộ
Chính trị chứ không phải một mình Dũng có
quyền quyết định. Như thế, món quà triều
cống Trung Cộng, tức quyết định khai thác bô-xít
Tây nguyên, là quyết định của bộ Chính trị
đảng CSVN, chứ không phải riêng của Dũng, tiếp
theo sau các hiệp định về biên giới giữa hai
nước. Việc
khai thác bô-xít lợi hại, lời lỗ như thế
nào, báo chí trong và ngoài nước, báo chí quốc tế
đã nói nhiều rồi. Ở
đây chỉ xin nhấn mạnh một điều là dự
án khái thác bô-xít Tây nguyen đã bị tổ chức COMECON do
Liên Xô lãnh đạo đề nghị bãi bỏ, lại
được đảng CSVN đem ra thực hiện sau
mật nghị Thành Đô với Trung Cộng. Biết rằng có
hại mà vẫn ngậm miệng thực hiện. Một là vì lợi,
hai là vì tham quyền cố vị? Phải chăng đây
là một chủ đề mà Trung Cộng buộc
đảng CSVN thi hành tại cuộc họp Thành Đô
giữa hai đảng CS hai nước, để Trung
Cộng bảo kê cho chế độ CSVN bù nhìn? 4.- ĐẶC KHU KINH TẾ Ngày 22-3-2017, Bộ
chính trị đảng CS ra lệnh cho quốc hội
CHXHCNVN dưới hình thức “Thông báo kết luận của
Bộ chính trị” về việc xây dựng các đơn vị
hành chánh kinh tế đặc biệt, gọi tắt là
đặc khu: Lệnh của
Bộ chính trị gồm 6 điều, trong đó
điều 5 giao cho quốc hội lo liệu việc ra
luật đặc khu. Bộ chính trị là
cơ quan siêu quyền lực vô hình, không có trong hiến
pháp, nhưng điều khiển luôn cả quốc hội,
mà trên lý thuyết quốc hội là cơ quan quyền lực
cao nhứt nước. Vì vậy, quốc
hội bắt tay thảo luận ngay từ cuối năm
2017, nhưng việc bàn cãi kéo dài nên bà Nguyễn Thị Kim
Ngân, chủ tịch quốc hội phải nhắc nhở
trong phiên họp Ban thường vụ quốc hội ngày
16-4-2018 rằng: “Bộ chính trị đã kết luận rồi,
dự thảo luật không trái Hiến pháp, phải bàn
để ra luật chứ không không thể không ra luật.” (Vn Economy, ngày
16-4-2018.). Bộ
chính trị có thể hù dọa được quốc
hội, chứ không thể làm cho nhân dân lùi bước. Vào cuối
tháng 4, đầu tháng 5-2018 dư luận trong và ngoài
nước bắt đầu bàn tán về hai dự
luật của quốc hội CHXHCNVN. Riêng “Luật đơn vị hành chánh kinh tế
đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú
Quốc”, gọi tắt là luật đặc khu, dự
tính cho người ngoại quốc thuê 99 năm, khiến
dư luận dân chúng lo ngại là nhà nước CS nhượng
đất từng phần cho ngoại bang, mà ngoại bang ở
đây thì ai cũng nghĩ là Trung Cộng. Càng gần ngày
quốc hội bỏ phiếu trong lần họp thứ
5, dư luận càng sôi nổi. Được biết quốc
hội sẽ chung quyết dự luật đặc khu
ngày Thứ ba 12-6-2018, thì ngày Chủ nhật 10-6-2018, ở
trong nước, nổ ra những cuộc biểu tình
ở Hà Nội, Hải Dương, Nghệ An, Đà Nẵng, Nha Trang,
Bình Thuận, Sài Gòn, Bình Dương,
Mỹ Tho. Riêng tại
Bình
Thuận, cuộc
biểu tình trở nên bạo động, kéo dài hơn một ngày, gây tê liệt quốc lộ 1, đồng thời xảy ra
những cuộc đập phá xe cộ,
văn phòng của nhà cầm quyền địa
phương. Cũng
ngày Chủ nhật 10-6-2018, người Việt hải ngoại
nhất loạt đồng tổ chức biểu tình phản
đối hai dự luật vi phạm nhân quyền và bán
đất cho Trung Cộng tại tất cả các thủ
đô và thành phố lớn các nước trên khắp thế
giới, từ Mỹ Châu, qua Âu Châu, Á Châu và Úc Châu. Trước
cao trào phản đối của đồng bào trong và ngoài
nước, ngày Thứ ba 12-6-2018, quốc hội CS thông qua
“Luật an ninh mạng” và vài luật khác, nhưng hoãn biểu
quyết luật đặc khu cho đến kỳ họp
quốc hội lần thứ 6 vào tháng 10-2018. Sách
báo đã viết nhiều về ba đơn vị hành
chánh-kinh tế đặc biệt trong dự luật đặc
khu là Vân Đồn (tỉnh Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (tỉnh
Khánh Hòa) và Phú Quốc (tỉnh Kiên Giang). Ở đây, xin mời độc
giả tự quan sát bản đồ để thấy rõ
vị trí địa lý chiến lược của ba vùng nầy. Quần
đảo Vân Đồn nằm
trong Vịnh Bắc Việt, ở phía đông tỉnh
Quảng Ninh, huyện lỵ là Cái Rồng, trong đảo
Cái Bầu. Với kỹ thuật
tối tân hiện đại, từ Vân Đồn có thể
kiểm soát các cảng Tiên Yên, Cẩm Phả, Hạ Long, Hải
Phòng (hải cảng chính của Bắc Việt). Từ đây có thể quan sát toàn
bộ phía bắc Biển Đông. (Nguồn: Không đề tên tác giả,
Tập bản đồ giao
thông đường bộ Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Tài Nguyên-Môi Trường
và Bản Đồ Việt Nam, 2013, tr. 21.) Đặc
khu kinh tế Bắc Vân Phong, nằm trong vịnh Vân Phong,
thuộc huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Vịnh Vân Phong nhìn
xuống hải cảng Nha Trang, vịnh Cam Ranh và hải cảng
Cam Ranh. Từ vùng Bắc
Vân Phong có thể quan sát và kiểm soát toàn bộ vùng vịnh
Cam Ranh và cả Biển Đông. (Nguồn: Tập bản đồ hành chính,
Hà Nội: Nxb. Bản Đồ, 2003, tr. 46.) Phú
Quốc nằm trong vịnh Thái Lan, thuộc tỉnh Kiên
Giang, huyện lỵ là thị trấn Dương Đông, cách
thành phố Rạch Giá 120 Km và thị xã Hà Tiên 45 Km. Phú Quốc
nằm ngay trên thủy lộ từ Thái Bình Dương vào
vịnh Thái Lan, có thê theo dõi hoạt động tàu bè trong vịnh
Thái Lan, các hải cảng Cambodia và vùng biển phía nam nước
Việt Nam. (Nguồn: Tập
bản đồ hành chính, sđd.
tr. 70.) Nhìn
vào bản đồ ba vùng đặc khu kinh tế trên
đây, rõ ràng đây là những vị trí chiến lược
vô cùng quan trọng. Ai làm chủ các vùng nầy, sẽ làm chủ bờ
biển Việt Nam. Chắc
chắn Trung Cộng muốn làm chủ các đặc khu nầy
nhằm hỗ trợ cho chiến lược toàn cầu của
Trung Cộng là “một vành đai, một con đường”
(“nhất đái, nhất lộ” tức “one belt one road” hay
OBOR), hiện đang được bàn tán khắp thế
giới. Nếu Trung Cộng làm chủ
các đặc khu kinh tế trên đây, thì Việt Nam hoàn
toàn nằm trong vòng vây của Trung Cộng.
Phía bắc, quân đội Trung Cộng rải dài dọc
theo 6 tỉnh biên giới. Phía tây, Trung Cộng
đang bảo trợ Lào và Cambodia. Phía đông và phía nam,
ba đặc khu phong tỏa con đường ra biển của
Việt Nam. Đó là
chưa kể Trung Cộng đang bồi đắp thêm các
vùng đá ngầm trên các đảo thuộc quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa làm vòng đai bên
ngoài thêm vững chắc. Việt Nam không còn lối đi nào cả. KẾT
LUẬN Cho đến nay, không ai
biết nội dung hội nghị Thành Đô năm 1990, trừ
những người trong cuộc.
Phạm Văn Đồng, Nguyễn
Văn Linh đã chết.
Đỗ Mười già quá rồi (101
tuổi), gần đất xa trời, bây giờ có lẽ
lú lẫn, chẳng nhớ gì.
Giới lãnh đạo kế tục trong đảng
CSVN cho đến thế hệ Nguyễn Phú Trọng, Trần
Đại Quang, Nguyễn Xuân Phúc, Nguyễn Thị Kim Ngân
và bộ chính trị hiện nay, chỉ biết cúi đầu
vâng phục Trung Cộng để duy trì địa vị,
quyền lợi. Còn sống chết mặc dân, bất kể
tương lai đất nước. Việc
thay đổi hiến pháp năm 1992, việc ký kết hai
hiệp định về biên giới trên đất liền
và trên Biển Đông, việc khai thác bô-xít trên cao nguyên Nam
Trung phần, và dự án xây dựng ba đặc khu Vân
Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc, phải chăng là
những chủ đề mà Trung Cộng đòi hỏi
trong mật nghị Thành Đô, chính là lộ trình dẫn
đến một hình thức Trung Cộng bảo hộ Việt
Nam kiểu mới, mà dư luận thường cho rằng
Việt Nam sẽ trở thành khu tự trị trong đế
quốc Trung Cộng. Vì
vậy, người Việt Nam chỉ còn con đường
duy nhứt là phải tranh đấu giải thể chế
độ CSVN, xóa bỏ những cam kết bí mật giữa
đảng CSVN và đảng CSTH, thì mới có thể thoát
khỏi cảnh Trung Cộng đô hộ lần nữa. Phải chống Việt
Cộng để chống Trung Cộng. TRẦN
GIA PHỤNG (Toronto,
30-7-2018) |