ĐỊA DANH
ĐÀ NẴNG
(Trình
bày tại Đại hội Đồng hương và Thân hữu QN-ĐN
tại Toronto, 24-10-2015)
Kính thưa quý vị Quan khách,
Kính thưa các bậc Trưởng thượng,
Kính thưa Ban Tổ chức,
Trước hết, tôi xin cảm ơn Ban Tổ chức giao cho tôi công
việc trình bày một đề tài văn hóa trong Đại hội đồng hương và thân hữu QN-ĐN
vùng Toronto và phụ cận tối hôm nay.
Đề tài tôi xin trình bày là “Địa danh Đà Nẵng”.
Đà Nẵng là thành phố lớn ở
phía bắc tỉnh Quảng Nam. Qua lịch sử,
Đà Nẵng có tất cả năm (5) tên khác nhau: Đà Nẵng, Hàn hay Cửa Hàn, Tourane,
Vũng Thùng, Thành phố Thái Phiên.
1.- ĐÀ NẴNG
Đà Nẵng là danh xưng đầu tiên
của thành phố nầy. Trong sách Ô châu cận lục, Dương Văn An viết
xong năm 1555, rằng tại Đà Nẵng, có đền thờ Nguyễn Phục, một công thần bị
chết oan khi vua Lê Thánh Tông nam chinh đánh Chiêm Thành năm 1471. (Dương Văn An, Ô Châu cận lục, Bùi Lương dịch, Sài Gòn: Nxb. Văn Hóa Á Châu,
1961, tr. 73.)
Tác giả Dương Văn An dùng
danh xưng Đà Nẵng để chỉ nơi có đền thờ Nguyễn Phục năm 1471 có nghĩa là danh
xưng nầy đã có từ đó hay trước đó nữa, tức trước khi người Việt đến vùng
nầy. Đây là vùng vốn thuộc người Chiêm Thành hay Chàm
hay Chăm trước khi người Việt đến. Như
thế Đà Nẵng là một địa danh gốc Chiêm Thành.
Trong tiếng Chiêm, có ba từ
ngữ liên hệ đến địa danh Đà Nẵng. Đó
là đarăk (bờ biển, bãi biển), đanăk (sông lớn), đanăng (bến sông, bến tàu). (Nguyễn
Hy Vọng, Từ điển ngồn gốc tiếng Việt,
Quyển 1, California: Nxb. Đất Việt, 2014, tr. 362.)
Như thế, Đà Nẵng là chữ phiên
âm của một trong ba chữ trên, mà chính yếu là chữ “đanăng” (bến sông, bến
tàu). Chữ nầy là một chữ song âm,
chứ không phải là một chữ kép, gồm hai chữ ghép lại (như Hà Nội). Nói cách khác, nếu tách chữ Đà Nẵng thành
hai phần riêng là Đà và Nẵng, thì không chữ nào có nghĩa, mà phải gọi chung
là Đà Nẵng. Ở Phú Yên có sông Đà
Rằng là phiên âm của chữ Đarăk.
2.- HÀN HAY CỬA HÀN
Có hai cách giải thích về chữ
Hàn.
Thứ nhứt:
Theo Từ điển nguồn gốc tiếng Việt,
thì “hàn” là một tiếng xưa của người Chăm hay Chiêm, có nghĩa là “cửa sông
có ghềnh đá”, “ghềnh đá dựng ở cửa sông”, “núi, ghềnh đá, mõm đá ở cửa sông
hay cửa biển” (chỉ núi Sơn Chà), “cái vũng, cái vịnh” (chỉ vịnh Đà Nẵng.)
(Nguyễn Hy Vọng, sđd. tr. 546.)
Thứ
hai: Theo sách Lịch sử Đà Nẵng (1306-1975), chữ Hàn còn có nguồn gốc từ tiếng
Trung Hoa, gọi là “Hiện cảng”. Theo
cách phát âm của người Hải Nam (Trung Hoa), “Hiện cảng” được đọc là “Hành
càn” hay “Hàn càn”, nên Đà Nẵng còn được gọi là “Hàn” hay “Cửa Hàn”. Theo sách nầy, khi thương nhân Trung Hoa đến Đà Nẵng
buôn bán vào các thế kỷ trước đây, họ gọi Đà Nẵng là “Hiện cảng”. “Hiện” nghĩa là “con sò”. “Hiện cảng là “Cảng con sò”, vì người Hoa
thấy bán đảo Sơn Chà giống như là con sò nằm ngay ở trước cửa biển. (Võ Văn Dật, Lịch sử Đà Nẵng (1306-1975), California: Nxb. Nam Việt, 2007,
tt. 20-28.)
Phối hợp hai tài liệu trên
đây, chữ “Hàn” nguyên là tiếng Chăm, chắc chắn có trước khi người Hoa
đến. Có thể người Hoa nghe được âm
chữ “Hàn” trong tiếng Chiêm, mà lại thấy bán đảo Sơn Chà nhô ra ngoài đại
dương như một con sò trước cửa biển Đà Nẵng, nên dùng chữ “Hàn càn” hay “Hành
càn” để phiên âm. “Hàn càn” hay “Hành càn” là âm Hải Nam. Người Việt đọc theo âm Hán Việt là Hiện cảng”,
nghĩa là “Cảng con sò”.
Địa danh Hàn hay Cửa Hàn dần
dần biến mất từ thập niên 50 thế kỷ trước.
Ngày nay, người ta hầu như không còn gọi thành phố Đà Nẵng là Hàn
hay Cửa Hàn. Chỉ còn một vài dấu chỉ
về chữ Hàn: Dòng sông chảy qua Đà Nẵng trước khi đổ ra biển được gọi là
Sông Hàn. Ngôi chợ nằm trên tả ngạn
sông nầy cũng còn được gọi là Chợ Hàn.
Ca dao Quảng Nam có câu: "Từ khi Tây lại đất Hàn, / Đào sông Cu
Nhí đắp đàng Bông Miêu.” Người
Pháp đánh chiếm Đà Nẵng, bắt dân Việt
đào sông Cu Nhí lên Nông Sơn, và mở đường bộ lên Bông Miêu vì người Pháp
khai thác mỏ than Nông Sơn và mỏ vàng Bông Miêu, nên mở đường chuyên chở nguyên liệu về Đà Nẵng.
3.- TOURANE HAY TOURON
Thời Pháp thuộc, Đà Nẵng hay
Cửa Hàn còn được gọi là Tourane. Các
tài liệu hoặc bản đồ xưa của người Tây phương cho thấy thoạt tiên người Tây
phương gọi Đà Nẵng là Touron hay Turon.
Ví dụ như bản đồ do Alexandre
de Rhodes (1593-1660) ấn hành tại Paris năm 1653, thì địa danh nầy được
viết là Turon. (Bản đồ nầy được
Nguyễn Khắc Ngữ in lại, làm phụ bản không đề trang, trong sách Bộ sưu
tập bản đồ cổ Việt Nam, Montréal: Nhóm Nghiên cứu Sử Địa, 1987.)
Cho đến nay, nguồn gốc chữ
Tourane hay Touron hay Turon chưa được giải thích rõ ràng. Không biết chữ Touron do ai đặt ra, phiên
âm theo tiếng địa phương, hay tiếng Latin, tiếng Pháp, tiếng Bồ Đào Nha hay
T ây Ban Nha, vì trong các thứ tiếng trên đây, chữ Touron, Turon không có ý
nghĩa nào cả.
Có người theo lối chiết
tự, cho rằng trong tiếng Pháp, chữ Tourane gồm hai phần: Tour và âne. “Tour” là cái tháp, “âne” là con
lừa. Thuyết nầy cho rằng người Pháp
đến Đà Nẵng, thấy trên núi Sơn Chà có một cái tháp và con lừa nên gọi nơi
đây là Tourane. Thật ra, ở Đà Nẵng
cũng như ở Quảng Nam, dân chúng không có nuôi lừa, nên không thể có chuyện
con lừa bên cạnh cái tháp.
Cũng theo lối chiết tự
trong tiếng Pháp, có thuyết khác cho rằng khi người Pháp đến Cửa Hàn (Đà
Nẵng), người Pháp lập một cái tháp (Tour) trên vùng đất Hàn, nên gọi là
“Tour d’Han”, và đọc lâu ngày thành “Tourane”. Cái tháp nói đến ở đây không biết là tháp
nào, vì ở vùng Đà Nẵng và Quảng Nam, ngoài các tháp Chăm (Chiêm Thành) thì
chẳng có tháp nào do người Pháp hay người Việt xây.
4.- VŨNG THÙNG
Tại Đà Nẵng, có một cái vịnh
nhỏ như các thùng nước thiên nhiên, gọi là Vũng Thùng nên có người gọi Đà Nẵng
là Vũng Thùng. Về sau dân chúng thường
gọi Vũng Thùng là Biển Thanh Bình. Vòng
chu vi vịnh nầy chạy từ bán đảo Sơn Chà và cửa sông Hàn, vòng lên Thanh Khê,
qua Nam Ô, đến Liên Chiểu và chân phía nam đèo Hải Vân.
Lịch sử lập lại tại Vũng
Thùng. Khi bắt đầu mở cuộc tấn công
Việt Nam, Pháp đem
chiến thuyền tấn công vịnh Đà Nẵng (Vũng Thùng) đầu tiên năm 1847 rồi bỏ đi. Đến năm 1858, cũng từ Vũng Thùng, liên quân
Pháp-Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng ngày 1-9.
Ca dao Quảng Nam có câu: "Tai
nghe súng nổ cái đùng,/ Tàu Tây đã lại Vũng Thùng anh ơi.”
Hơn một trăm năm sau, khi đưa
quân vào Việt Nam, địa điểm đầu tiên mà Tiểu đoàn 9 TQLC Hoa Kỳ đổ bộ cũng
là Nam Ô, trong vịnh Đà Nẵng tức Vũng Thùng ngày 8-3-1965.
5.- THÀNH PHỐ THÁI PHIÊN
Sau khi nắm được chính quyền ngày
2-9-1945, thì hơn mười ngày sau, ngày 14-9-1945, nhà nước Việt Minh cộng
sản ra lệnh đổi tên Đà Nẵng là THÀNH PHỐ THÁI PHIÊN, theo kế hoạch dùng tên
danh nhân để đặt tên các thành phố như người Tây phương. (Việt Minh gọi Hà
Nội là Thành phố Hoàng Diệu, Tam Kỳ là Thành phố Trần Cao Vân, Quảng Ngãi
là Thành phố Lê Trung Đình…)
Người Việt vốn không có tập
tục dùng tên danh nhân đặt tên thành phố, nên dân chúng vẫn gọi tên Đà
Nẵng. (Giống như ngày nay cộng sản
đổi tên Sài Gòn thành tên Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng dân chúng vẫn gọi
tên Sài Gòn mà thôi.) Cuối năm 1946,
Pháp tái chiếm Đà Nẵng. Đà Nẵng được
Pháp gọi trở lại là Tourane.
Năm 1949, dưới chính thể Quốc
Gia Việt Nam, Tourane trở lại thành Đà Nẵng cho đến ngày nay. Như vậy, Đà Nẵng là tên đầu tiên và là
tên cuối cùng của thành phố thân yêu của chúng ta.
Trước khi chấm dứt, xin sơ
lược thêm về nhân vật Thái Phiên (1882-1916). Ông gốc người làng Nghi An, huyện Hòa
Vang, gần Đà Nẵng. Ông theo tân học,
nhưng yêu nước và gia nhập Việt Nam Quang Phục Hội của Phan Bội Châu. Năm 1916, Thái Phiên cùng Trần Cao Vân và
VNQPH tổ chức khởi nghĩa ở Trung Kỳ và mời vua Duy Tân (trị vì 1907-1916)
đứng đầu. Cuộc khởi nghĩa thất
bại. Tất cả đều bị Pháp bắt. Có ba điều đáng nói về Thái Phiên.
Thứ nhứt, khi bị xét xử, trước
tòa, Thái Phiên cùng Trần Cao Vân chịu nhận hết tội để cứu vua Duy
Tân. Thứ hai, khi Thái Phiên bị
chém. ở An Hòa, máu chảy xuống cỏ.
Vợ Thái Phiên là bà Trần Thị Băng, bận sẵn tang phục, lấy tóc mình
chùi sạch cỏ. Bà Băng giữ tóc như
vậy, không gội đầu cho đến khi chết sau đó không lâu. Thứ ba, khi hai ông bị xử tử , mộ phần
hai ông bị canh gác cẩn mật, không ai được thăm viếng. Chín năm sau, một đồng đội của Trần Cao
Vân và Thái Phiên trong VNQPH là bà Trương Thị Dương đã trộm hài cốt của hai
ông, đưa về chôn chung trong khuôn viên chùa Châu Lâm (Huế) trong cùng một
ngôi mộ, gọi là ngôi mộ song táng. Ngôi mộ nầy hiện vẫn còn tại chùa.
Câu chuyện Thái Phiên kết thúc
đôi điều về Đà Nẵng tối hôm nay . Chúng
tôi xin cảm tạ quý vị đã lắng nghe, trân trọng kính chào và kính chúc quý
vị một buổi tối đồng hương Quảng Nam Đà Nẵng gặp nhau vui vẻ.
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 24-10-2015)
|