HỒ CHÍ
MINH CẦU VIỆN NĂM 1950
Trần
Gia Phụng
Sau khi Hồ Chí Minh (HCM)
cùng Mặt trận Việt Minh (VM) do đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) lãnh đạo,
cướp chính quyền và thành lập chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH)
ngày 2-9-1945, Pháp trở lui Việt Nam.
Hồ Chí Minh liền thương thuyết và ký hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) tại Hà Nội, đồng ý cho quân đội Pháp vào Bắc
Kỳ. Sau đó, HCM ký Tạm ước tại Paris (14-9-1946) để cho
Pháp tái tục các hoạt động kinh tế, tài chính, giao thông, văn hóa trên
toàn quốc Việt Nam. Quân Pháp đến Hà
Nội càng ngày càng đông, và áp lực nhà cầm quyền VM phải để cho Pháp kiểm
soát an ninh Hà Nội.
Nếu để cho Pháp kiểm soát an
ninh Hà Nội, thì HCM, lãnh đạo CS ĐD và VM sẽ nằm trong tay Pháp. Vì vậy, để thoát khỏi Hà Nội, Trung ương
đảng CSĐD họp trong hai ngày 18 và 19-12-1946, tại Vạn Phúc (Hà Đông) quyết
định phát động chiến tranh chống Pháp trên toàn quốc. (Lê Mậu Hãn chủ biên, Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III,
Hà Nội: Nxb. Giáo Dục, 2001, tr. 48.
Từ điển bách khoa quân sự Việt
Nam, Hà Nội: Nxb. Quân Đội Nhân Dân, 2004, tt. 503-504.)
Lực lượng VM bất ngờ tấn công
Pháp tối 19-12-1946. Hồ Chí Minh và
các lãnh tụ CS có lý do chính đáng rút đi mật khu mà tránh bị mang tiếng
trốn chạy. Từ đó, VM thua chạy dài
cho đến năm 1949. Trong năm nầy, hai
sự kiện chính trị quan trọng xảy ra.
Thứ nhứt chính phủ Quốc Gia Việt Nam được thành lập do Cựu hoàng Bảo
Đại làm Quốc trưởng sau Hiệp định Élysée
ngày 8-3-1949. Thứ hai, đảng Cộng
Sản Trung Hoa (Trung Cộng) thành công và chiếm lục địa Trung Hoa. Chính phủ Quốc Dân Đảng Trung Hoa di tản
ra Đài Loan (Taiwan). Mao Trạch Đông
(MTĐ) tuyên bố thành lập chính phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH),
định đô ở Bắc Kinh, ngày 1-10-1949.
1.- HỒ CHÍ MINH QUA BẮC
KINH
Sau khi CHNDTH được thành
lập, Hồ Chí Minh gởi hai đại diện là Lý Bích Sơn và Nguyễn Đức Thủy đến Bắc
Kinh xin viện trợ cuối năm 1949. Lưu
Thiếu Kỳ (Liu Shaoqi), xử lý công việc bộ Chính trị đảng CSTH, cử La Quý Ba
(Luo Guibo), ủy viên trung ương đảng CSTH, làm đại diện đảng CSTH bên cạnh
đảng CSĐD. (Qiang Zhai, China & Vietnam Wars, 1950-1975,
The University of North Carolina Press, 2000, tt. 13, 15.) Tháng 01-1950, La Quý Ba qua Việt Nam
làm cố vấn. (La Quý Ba, “Mẫu mực
sáng ngời của chủ nghĩa quốc tế vô sản”, trong Hồi ký của những người trong cuộc, ghi chép thực về việc đoàn cố
vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, một nhóm tác giả,
Bắc Kinh: Nxb Lịch sử đảng Cộng Sản Trung Quốc, 2002, Trần Hữu Nghĩa, Dương
Danh Dy dịch, Dương Danh Dy hiệu đính, Montreal: Tạp chí Truyền Thông số 32 và 33, Hạ-Thu
2009, tr. 19.)
Theo sự thỏa thuận giữa hai bên,
chính phủ VNDCCH thừa nhận chính phủ CHNDTH ngày 15-1-1950. Ngay sau đó, CHNDTH thừa nhận trở lại
chính phủ VNDCCH ngày 18-1-1950. Gần
nửa tháng sau, Liên Xô thừa nhận chính phủ VNDCCH ngày 30-1-1950. Các nước cộng sản khác ở Đông Âu tiếp tục
thừa nhận VNDCCH sau Liên Xô.
Cũng ngày 30-1-1950, HCM bí
mật đến Bắc Kinh cầu viện. Theo tài
liệu của CSVN, tại Bắc Kinh, HCM “đã
hội đàm với Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Hoa. Mao Trạch Đông hứa sẽ tích cực
chi viện cho cuộc kháng chiến của Việt Nam...”(Lê Mậu Hãn chủ biên, sđd. tt. 68-69.)
Tài liệu của một người tự
xưng đã “từng viết tiểu sử Hồ Chí Minh”, cũng xác nhận khi HCM đến Bắc Kinh
thì MTĐ đang ở Bắc Kinh. Tài liệu
nầy còn hé lộ thêm rằng HCM “kiểm
thảo, trình bày các cái ta chủ trương và làm, Lưu Thiếu Kỳ nhận xét...chính
sách tiêu thổ kháng chiến toàn bàn của Việt Nam là không cần thiết và lãng
phí...” (Trần Đĩnh, Đèn cù,
California: Người Việt Books, 2014, tr. 49.)
Theo tác giả nầy, “báo cáo coi như kiểm điểm”; mà lại
kiểm điểm tất cả “các cái ta chủ
trương”, ít nhất kể từ khi VM thưc hiện tiêu thổ kháng chiến tức từ năm
1946 đến năm 1949. Câu hỏi đặt ra là
tại sao HCM phải kiểm thảo? Vai vế
của một nước nhỏ trong Đệ tam Quốc tế CS, hay vai vế một chư hầu? Một tay sai? Hơn nữa, tuy MTĐ có mặt ở Bắc Kinh, nhưng
tại sao cuộc kiểm thảo của HCM do Lưu Thiếu Kỳ nhận xét (tức phê
bình). Tại sao không phải là MTĐ
nhận xét, mà lại là Lưu Thiếu Kỳ?
Theo các tài liệu trên đây
của CSVN, HCM đến Bắc Kinh gặp MTĐ.
Tuy nhiên, các tài liệu khác, kể cả tài liệu Trung Cộng, thì MTĐ
không có ở Bắc Kinh khi HCM đến Bắc Kinh, mà MTĐ đã qua Moscow.
Trước hết, theo Qiang Zhai,
giáo sư đại học North Carolina, một
người gốc Trung Hoa, ngay khi hai đại diện của HCM là Lý Bích Sơn và Nguyễn
Đức Thủy đến Bắc Kinh cuối năm 1949, thì MTĐ đã qua Moscow. “Mao
công bố thành lập CHNDTH ngày 1-10-1949.
Không lâu sau đó, Hồ Chí Minh gởi hai đại diện, Lý Bích Sơn và
Nguyễn Đức Thủy, đi Bắc Kinh tìm kiếm hậu thuẫn trong cuộc chiến đấu chống
Pháp. Vào lúc đó, Mao đã ở Moscow
thương thuyết một hiệp định liên minh.
Trong thời gian Mao vắng mặt khỏi Bắc Kinh (giữa 16-12-1949 và
17-2-1950), Lưu Thiếu Kỳ, quyền chủ tịch Ủy ban Trung ương đảng CSTH, phụ
trách công việc hàng ngày của đảng.” (Qiang Zhai, sđd. tr. 13)
Theo La Quý Ba, cố vấn Trung
Cộng bên cạnh HCM, trong bài “Mẫu mực sáng ngời của chủ nghĩa quốc tế vô
sản” (Truyền Thông, bài đã dẫn, báo đã dẫn, tr. 20), thì
lúc đó MTĐ và Chu Ân Lai đang ở Moscow để thương thuyết với Stalin.
Tài liệu về tiểu sử MTĐ,
quyển The Unknown Story MAO thì
MTĐ bắt đầu đi qua Moscow bằng tàu hỏa ngày 6-12-1949, tham dự lễ sinh nhật
thứ 70 của Stalin ngày 21-12-1949. (Jung Chang, The Unknown Story MAO, New York: 2005, tr. 350.)
Trong hồi ký của mình, Nikita
Khrushchev cũng viết rằng Mao đến Moscow tham dự sinh nhật thứ 70 của
Stalin ngày 21-12-1949. (Khrushchev
Remembers The Last Testament, Translated and Edited by Strobe Talbott,
Boston-Toronto: Little, Brown and Co., 1974, tr. 239.)
Theo các tài liêu trên đây,
kể cả tài liệu của Khrushchev, rõ ràng MTĐ có mặt ở Moscow tham dự sinh
nhật thứ 70 của Stalin, thì không thể có chuyện MTĐ có mặt ở Bắc Kinh gặp
HCM vào tháng 1-1950 theo như các tài liệu CSVN. Chuyện nầy giải thích vì sao sách Đèn cù viết rằng Lưu Thiếu Kỳ, xử lý
thường vụ đảng CSTH, nhận xét về báo cáo của HCM, chứ không phải MTĐ.
Lý do đơn giản giải thích
việc các tài liệu CSVN viết rằng HCM đã gặp MTĐ ở Bắc Kinh là vì HCM thường
sử dụng hình tượng các nhân vật quan trọng để lòe đám cộng sản tay chân
chung quanh HCM, như đã có lần vào năm 1945, HCM xin một tấm ảnh của đại
tướng Hoa Kỳ là Claire Chennault, rồi treo ở trụ sở chiến khu Tân Trào cho
mọi người thấy, nhằm chứng tỏ rằng Hoa Kỳ ủng hộ HCM và mặt trận VM. Các nhà viết sử đảng CS chỉ viết theo
tuyên truyền hoặc lời kể của cấp trên mà thôi.
2.- HỒ CHÍ MINH CẦU VIỆN
Sau Bắc Kinh, HCM đến Moscow
tối 6-2-1950. Bộ chính trị đảng CSLX
mở tiệc chào mừng HCM, nhưng Joseph Stalin không tham dự. Stalin chỉ tiếp HCM tại văn phòng làm
việc, với sự có mặt của của Malenkow, Molotow, Bulganin, và đại sứ Trung
Cộng tại Liên Xô, Vương Gia Tường.
Stalin nói với HCM: “Đảng Cộng
Sản Liên Xô và nhân dân Liên Xô hoàn toàn nên viện trợ cho cuộc đấu tranh
chống Pháp của các đồng chí. Song,
chúng tôi đã trao đổi với các đồng chí Trung Quốc, công việc viện trợ chiến
tranh chống Pháp của Việt Nam chủ yếu do Trung Quốc phụ trách thích hợp
hơn...” (Trương Quảng Hoa, “Quyết sách trọng đại Trung Quốc viện trợ
Việt Nam chống Pháp”, đăng trong sách Hồi
ký những người trong cuộc..., tạp chí Truyền Thông, báo đã dẫn, tr. 45.)
Quyết định của Stalin giao
cho Trung Cộng phụ trách viện trợ CSVN có thể bắt nguồn từ hai lý do: Thứ nhứt Stalin và Liên Xô chưa có quyền
lợi gì ở Đông Nam Á nên không muốn can thiệp vào Việt Nam, trong khi đó
Liên Xô bận lo củng cố vùng Đông Âu mới chiếm được sau năm 1945. Thứ hai MTĐ qua Moscow trước HCM. Khi HCM đến Bắc Kinh xin viện trợ, Lưu
Thiếu Kỳ (xử lý thưòng vụ ở Bắc Kinh) thông báo mục đích chuyến đi của HCM
cho MTĐ. Mao Trạch Đông thảo luận
trước với Stalin, và hai bên đồng ý để chuyện Việt Nam cho Trung Cộng phụ
trách. Phải chăng vì Stalin giao
Việt Nam cho Trung Cộng viện trợ, mới có sự hiện diện của viên đại sứ Trung
Cộng khi Stalin tiếp kiến HCM?
Ngày 14-2-1950, Joseph Stalin
và MTĐ ký “Hiệp ước hữu nghị, liên
minh và hỗ tương Trung-Xô” (Sino-Soviet
Treaty of Friendship, Alliance and mutual Assistance) gồm 6 điều khoản
và giá trị trong 30 năm. Ngày 16-2,
trong buổi tiệc khoản đãi MTĐ trước khi phái đoàn Trung Cộng về nước, nhân
lúc Stalin vui chuyện, HCM xin Stalin ký một hiệp ước với VNDCCH như đã ký
với CHNDTH. Vì HCM bí mật qua Liên
Xô, Stalin hỏi lại HCM: “Thế người ta
hỏi đồng chí từ đâu ra? Chúng tôi
giải thích như thế nào?”. Hồ Chí
Minh nói: “Điều đó rất dễ, đồng chí
cho máy bay chở tôi lượn một vòng trên trời, sau đó cho người ra sân bay
đón tôi, đưa một tin trên báo, không được sao?” Stalin cười lớn nói: “Đó quả là sức tưởng
tượng đặc biệt của người phương Đông các anh.” Rất nhiều người dự tiệc cũng đều cười
vang.” (Trương Quảng Hoa, bđd.,
sđd. tr. 46.)
Ngày 17-2-1950 (mồng 1 Tết
canh dần), MTĐ cùng Châu Ân Lai rời Moscow, trở về Bắc Kinh bằng tàu
hỏa. Hồ Chí Minh cũng tháp tùng theo
đoàn tàu nầy. Khi về đến biên giới
Liên Xô - Trung Cộng, tuyệt vọng về phía Liên Xô, HCM tìm đến toa tàu của
MTĐ và dùng tiếng Tàu cầu viện MTĐ.
Hồ Chí Minh nói: “Stalin không chuẩn bị viện trợ trực tiếp
cho chúng tôi, cũng không ký hiệp ước với chúng tôi, cuộc chiến tranh chống
Pháp của Việt Nam từ nay về sau chỉ có thể dựa vào viện trợ của Trung Quốc.”
Mao Trạch Đông trả lời: “Chúng ta là đảng anh em, lại là láng
giềng! Về vật tư quân sự, cố gắng
hết sức viện trợ cho các đồng chí là điều phải làm; tất nhiên đó là ý kiến
cá nhân tôi, còn phải do Trung ương quyết định.” (Trương Quảng Hoa, bđd., sđd. tr. 47.)
Tại Bắc Kinh, một hiệp ước
phòng thủ hỗ tương giữa VNDCCH và CHNDTH được ký kết, theo đó hai bên hợp
tác để tiễu trừ thổ phỉ. (Bernard
Fall, Le Viet-Minh, Paris: Max
Leclerc et Compagnie, 1960, tr. 119.)
Thổ phỉ ở đây ám chỉ biệt kích Pháp và nhất là tàn quân Quốc Dân
Đảng Trung Hoa, đã vượt qua biên giới Việt Hoa trốn tránh sau khi Tưỏng
Giới Thạch thất bại. Có thể MTĐ quan
tâm đến tình hình biên giới Việt Hoa, cũng có thể MTĐ mượn lý do tiễu trừ
thổ phỉ, ký hiệp ước với VM, nhằm tránh sự phản đối về ngoại giao của Pháp
và Quốc Gia Việt Nam.
Trước khi rời Bắc Kinh ngày
11-3-1950 trở về nước, HCM chỉ định Hoàng Văn Hoan làm đại diện đảng CSĐD
và nhà nước VNDCCH ở Bắc Kinh. (Ngày
HCM rời Bắc Kinh, theo bài thơ “Ly Bắc”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, xuất bản lần thứ hai, Hà Nội: Nxb.
Chính Trị Quốc Gia, 2000, tr. 19.)
3.- KẾT QUẢ CẦU VIỆN
Sau chuyến cầu viện Moscow
thất bại, HCM chỉ có thể trông cậy vào Trung Cộng. Tháng 4-1950, HCM gởi đến Bắc Kinh danh
mục xin viện trợ, đồng thời đề nghị Trung Cộng lập một trường võ bị ở Trung
Cộng, gởi cố vấn quân sự sang Việt Nam và xin giúp thêm quân nhu, quân cụ,
súng ống. (Qiang Zhai, sđd. tr. 18.) Từ đó, Trung Cộng viện trợ và đáp ứng tối
đa cho nhu cầu của VM, mà theo Lưu Thiếu Kỳ, VM sẽ trả lại sau, một khi VM
có thể sản xuất hàng hóa. (Qiang
Zhai, sđd. tr. 19.) Phải chăng HCM đã hứa trả lại viện trợ
với Lưu Thiếu Kỳ trong khi cầu viện đầu năm 1950?
Ngoài ra, Trung Cộng còn bổ
nhiệm cố vấn quân sự từ cấp tiểu đoàn cho quân đội VM. Trong thời gian nầy, VM gởi 22,000 quân
sang Trung Cộng huấn luyện và trang bị.
(Chính Đạo, Việt Nam niên
biểu, tập B, Houston: Nxb. Văn Hóa: 1997, tr. 164.) Lãnh thổ Trung Cộng
trở thành hậu cứ bất khả xâm phạm cho du kích VM trốn tránh, dưỡng quân và
huấn luyện. Quân đội Pháp không vượt
biên giới để truy kích VM vì sợ gây hấn với Trung Cộng.
Ngày 27-6-1950, trong cuộc
tiếp kiến phái bộ cố vấn quân sự Trung Cộng sẽ được gởi sang giúp CSVN, MTĐ
giao cho phái bộ nầy hai nhiệm vụ chính: 1) Giúp VM thành lập quân đội chủ
lực. 2) Giúp quân đội VM thiết lập kế hoạch hành quân, và cùng tham chiến
với VM. Cuối tháng 7-1950, Bộ Tư
lệnh Cố vấn Quân sự Trung Cộng chính thức được hình thành, lúc đầu gồm 281
người (trong đó có 79 cố vấn và 202 tùy viên), do tướng Vi Quốc Thanh (Wei
Guoqing) làm tư lệnh, với hai phụ tá là Mai Gia Sinh (Mei Jiasheng) và Đặng
Dật Phàm (Deng Yifan). (Chính Đạo, sđd. tt. 177, 186, 267.)
Sau chuyến đi cầu viện của
HCM vào đầu năm 1950, từ tháng 4 đến tháng 9-1950, CHNDTH gởi qua viện trợ
cho VM như sau: 14,000 súng lục và súng trường, 1,700 súng liên thanh và
súng không giựt, 150 súng cối, 60 đại pháo, 300 ba-dô-ka (bazooka), cùng
với trang thiết bị quân sự, thuốc men, dụng cụ truyền tin, áo quần và 2,800
tấn thực phẩm. (Qiang Zhai, sđd. tr. 20.)
Nhờ sự cố vấn, viện trợ của
Trung Cộng, VM bắt đầu phản công từ năm 1950. Tháng 9-1950, VM thu được thắng lợi đầu
tiên tại Đông Khê do tướng Trần Canh (Trung Cộng) cố vấn. Sau đó, Trung Cộng càng ngày càng tăng
cường giúp đỡ, kể cả trực tiếp chỉ huy chiến trường, nên cuối cùng VM cộng
sản thành công năm 1954.
KẾT LUẬN
Sau khi cướp được chính
quyền, hội nghị Trung ương đảng CSĐD tại Hà Nội ngày 11-9-1945 đưa ra
nguyên tắc căn bản là đảng CSĐD nắm độc quyền điều khiển mặt trận VM, và
một mình thực hiện cách mạng.
(Philippe Devillers, Histoire
du Viet-Nam de 1940 à 1952, Paris: Éditions du Seuil, 1952, tr.
143.) Đảng CSĐD nắm độc quyền mặt
trận VM. Mặt trận VM đang nắm chính
quyền, cai trị đất nước. Như thế có
nghĩa là đảng CSĐD độc quyền cai trị đất nước.
Việt Minh CS sẵn sàng thỏa
hiệp với Pháp để duy trì quyền lực.
Tuy nhiên, khi bị Pháp đe dọa, không còn cách nào thỏa hiệp với Pháp
được nữa, và bị Pháp truy bức đến cùng, Trung ương đảng CSĐD quyết định tấn
công Pháp vào tối 19-12-1946, để rút lui khỏi Hà Nội trong danh dự.
Điều đáng nhấn mạnh là đảng
CSĐD mở cuộc chiến tranh chống Pháp năm 1946 không phải vì tổ quốc lâm nguy
mà vì VM và đảng CSĐD lâm nguy, không phải vì bảo vệ nền độc lập dân tộc,
mà vì bảo vệ sự sống còn của đảng CSĐD.
Đây là cuộc chiến giữa VM và đảng CSĐD với Pháp, lợi dụng chiêu bài
chống Pháp giành độc lập, đổ gánh nặng chiến tranh lên vai dân tộc Việt
Nam. Khi cai trị thì nắm độc
quyền. Khi nguy biến thì bắt dân
chúng Việt Nam gánh chịu.
Hồ Chí Minh và VMCS lại cầu
viện Trung Cộng để chống Pháp. Thật
là ngu xuẩn khi HCM vả đảng CSĐD nhờ một tên cướp đuổi một tên trộm. Tên trộm bỏ chạy thì tên cướp chiếm nhà. Hậu quả đó di căn cho đến ngày nay. Muốn chấm dứt di căn nầy, thì phải cắt bỏ
khối ung thư CS trong cơ thể Việt Nam.
Đó là con đường duy nhứt để thoát khỏi hiểm họa Trung Cộng.
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 23-7-2015)
|