TRẬN HOÀNG SA,
BIỂU TƯỢNG HỘI TỤ LÒNG YÊU NƯỚC
(Trình bày tại
San Jose ngày 17-1-2015)
Trần
Gia Phụng
Trong chiến tranh Việt Nam
vừa qua, trận Hoàng Sa ngày 19-1-1974 tuy ngắn ngủi nhưng là trận chiến
chống ngoại xâm duy nhứt và ngày nay trở thành biểu tượng hội tụ lòng yêu
nước của người Việt. Để thấy rõ các
điểm nầy, xin đặt lại trận Hoàng Sa trong toàn bộ cuộc chiến Việt Nam vừa
qua.
TÍNH CHẤT CUỘC CHIẾN VIỆT NAM
Về cuộc
chiến 1946-1954, Cộng sản Việt Nam (CSVN) thường tuyên truyền rằng đó là
cuộc kháng chiến chống Pháp của toàn dân.
Thật ra, vấn đề không đơn giản như vậy. Nguyên khi ra mắt chính phủ Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ngày 2-9-1945 tại Hà Nội do mặt trận Việt Minh (VM)
và đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) lãnh đạo, Hồ Chí Minh (HCM) đưa ra ba
lời thề, trong đó lời thề thứ ba là sẽ chống Pháp đến cùng nếu Pháp trở lui
nước ta. Tuy nhiên khi Pháp trở lui, sợ Pháp lật đổ, mất quyền lãnh đạo,
đồng thời để rảnh tay tiêu diệt các thanh phần đối
lập, HCM không chống Pháp như lời thề ngày 2-9, mà thỏa hiệp với Pháp, ký
hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946,
đặt Việt Nam trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp, nghĩa là
hợp thức hóa sự hiện diện của quân đội Pháp ở Đông Dương. Chẳng những thế, để được chắc chắn yên
thân hơn, HCM còn qua Paris, xin ký với Pháp Tạm ước (Modus Vivendi)
ngày 14-9-1946. Hiệp ước nầy để cho
Pháp tái tục các hoạt động kinh tế, tài chánh, giao thông, văn hóa trên
toàn quốc Việt Nam. Như thế, rõ ràng, HCM cùng mặt trận VM và đảng CSĐD
phản bội có hệ thống lời thề chống Pháp trước dân chúng ngày 2-9-1945.
Khi quân đội Pháp đến Hà Nội
khá đông, xảy ra những cuộc đụng độ giữa quân Pháp và VM. Pháp yêu cầu VM phải để cho quân đội Pháp
kiểm soát an ninh ở Hà Nội. Nếu để
cho Pháp kiểm soát an ninh thì lãnh đạo đảng CSĐD và chính phủ VM đang ở Hà
Nội, hoàn toàn nằm trong tay Pháp.
Lo sợ bị bắt giữ, nhưng cũng không còn thương thuyết được với Pháp,
HCM bí mật họp Trung ương đảng CSĐD tại Vạn Phúc (Hà Đông) trong hai ngày
18 và 19-2-1946, để tham khảo ý kiến.
Không hỏi ý kiến Quốc hội (đại diện toàn dân) hay Ban Thường vụ Quốc
hội, dù Ban Thường vụ Quốc hội luôn luôn có mặt ở Hà Nội, Trung ương đảng
CSĐD quyết định tuyên chiến với Pháp, để có lý do chính đáng bỏ trốn khỏi
Hà Nội.
Cũng không tham khảo Quốc
hội, Trung ương đảng CSĐD còn thông qua “Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến”, đổ gánh nặng chiến tranh lên vai toàn dân. Lúc đó, dân Việt chưa biết nhiều về HCM
và đảng CSĐD. Dân Việt vốn có lòng
yêu nước và có tinh thần chống ngoại xâm, nên khi nghe lời kêu gọi kháng
chiến, liền đứng lên đáp lời sông núi mà không biết là đã bị HCM và đảng
CSĐD lừa phỉnh, lợi dụng. Nhiều
người tản cư vì tránh chiến tranh chứ không phải theo CS, vì chẳng bao lâu
sau đó, họ hồi cư về thành rất đông.
Như thế, cuộc chiến bùng nổ
tối 19-12-1946 là cuộc chiến do đảng CSĐD gây ra, vì quyền lợi sống còn của
đảng CS, giữa đảng CSĐD với Pháp, chứ không phải giữa dân tộc Việt Nam với
Pháp. Nếu kháng chiến chống Pháp vì
lòng yêu nước, thì phải giữ lời thề chống Pháp ngay khi Pháp mới trở lại
Việt Nam, chứ không thương thuyết, ký thỏa ước với Pháp, rồi khi đảng CSĐD bị
đe dọa, mới chống Pháp.
Trong khi đó, đảng CSĐD tiếp
tục cuộc tiêu diệt những thành phần theo chủ nghĩa dân tộc, không cộng sản,
từ thành phố đến nông thôn. Tại
thành phố, những nhân vật nổi tiếng bị VM giết đã nhiều. Tại nông thôn, trong mỗi làng, VM thủ
tiêu ít nhất từ 5 đến 10 người, thì trên toàn quốc Việt Nam, tổng cộng số
người bị VM giết có thể lên đến vài trăm ngàn người. Không thể ngồi chờ để bị giết, vì bản
năng sinh tồn, những thành phần theo chủ nghĩa dân tộc quy tụ chung quanh
cựu hoàng Bảo Đại, ở thế chẳng đặng đừng phải liên kết với Pháp chống CS,
thành lập chính thể Quốc Gia Việt Nam (QGVN) năm 1949.
Từ năm 1949, chiến tranh giữa
VMCS với Pháp trở thành chiến tranh ý thức hệ giữa người cộng sản với người
quốc gia, kéo dài đến năm 1954 mới chấm dứt bằng hiệp định Genève (20-7-1954), chia hai Việt
Nam tại vĩ tuyến 17: VNDCCH ở phía bắc, còn gọi là Bắc Việt Nam (BVN) và
QGVN ở phía nam, còn gọi là Nam Việt Nam (NVN). Rõ ràng cuộc chiến nầy không phải là cuộc
chiến chống ngoại xâm.
Cuộc chiến thứ hai 1960-1975
cũng do đảng CSĐD, dưới tên mới là đảng Lao Động (LĐ), cố tình gây hấn nhằm
thôn tính NVN và bành trướng chủ nghĩa CS.
Nguyên hiệp định Genève chỉ
có tính cách thuần túy quân sự, không đưa ra giải pháp chính trị. Giải pháp chính trị được nói đến tại điều
7 bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa
bình ở Đông Dương”, theo đó cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước dự
tính sẽ được tổ chức vào tháng 7-1956.
Tuy nhiên, bản tuyên bố nầy chỉ được hội nghị thông qua bằng miệng,
chứ không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nào cả, nghĩa là bản tuyên bố chỉ
có tính cách gợi ý, chứ không có tính cách cưỡng hành, không bắt buộc thi
hành.
Sau hiệp định Genève, VNDCCH hay BVN cài người,
giấu súng ở lại miền Nam, vi phạm hiệp định Genève, nhưng BVN lại lấy cớ VNCH hay NVN không chấp nhận tổng
tuyển cử, không tôn trọng hiệp định Genève,
phát động chiến tranh lần nữa, xâm lăng NVN vào cuối 1960. Lần nầy, núp
dưới chiêu bài “chống Mỹ cứu nước”,
Lê Duẫn, thư ký thứ nhứt đảng LĐ tức đảng CSĐD, xác định mục tiêu chiến
tranh là đánh cho TC, đánh cho Liên Xô.
Câu nói của Lê Duẫn khái quát hết sức đầy đủ mục đích chiến tranh
của BVN, làm tay sai cho LX, TC, và làm nhiệm vụ quốc tế CS.
Như thế, cả hai cuộc chiến
1946-1954 và 1960-1975 đều không chống ngoại xâm, mà chỉ do CS cố tình gây
ra nội chiến để bảo vệ quyền lực và mở rộng quyền lực, bành trướng chủ
nghĩa CS, làm tay sai cho CSQT. Có
thể nói cả hai cuộc chiến đều là hai cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn, còn
tệ hại hơn cuộc nội chiến thời Nam Bắc phân tranh vào thế kỷ 17, vì CSVN
lồng chủ nghĩa Mác xít vào cuộc nội chiến, tiêu diệt văn hóa dân tộc, làm
tổn hại và tê liệt đất nước.
TRẬN CHIẾN CHỐNG NGOẠI XÂM
Đảng CSĐD rồi đảng LĐ thành
công trong chiến tranh từ 1946 đến 1975 là nhờ viện trợ lớn lao của khối
quốc tế cộng sản (QTCS), trong đó quan trọng là TC. Ngay từ đầu, TC viện
trợ cho CSVN một cách hào phóng không phải vì nghĩa vụ QTCS, mà vì hậu ý
thâm hiểm, điển hình là tuyên cáo về lãnh hải của TC ngày 4-9-1958, bao gồm
cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông, trong khi thực tế hai
quần đảo nầy thuộc Việt Nam từ lâu đời và theo hiệp định Genève, thuộc NVN vì ở phía nam vĩ
tuyến 17.
Để đáp lại, thủ tướng BVN là
Phạm Văn Đồng (PVĐ) đưa ra công hàm ngày 14-9-1958 thừa nhận bản tuyên cáo
đó, nghĩa là thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của TC, nhắm hai mục đích:
1) Trả nợ cũ thời chiến tranh 1946-1954. 2)
Chuẩn bị vay nợ mới để tiến đánh VNCH hay NVN. Thật vậy, tháng 10-1959, PVĐ qua Bắc Kinh
cầu viện TC. Tháng 11-1959, TC đưa
một phái đoàn sang BVN trong hai tháng, nghiên cứu tất cả những nhu cầu cần
thiết của BVN. Tháng 5-1960, lãnh
đạo BVN và TC họp ở Hà Nội và Bắc Kinh để thảo luận chiến lược tấn công
NVN. (Qiang Zhai, China & the
Vietnam Wars, 1950-1975, The University of Carolina Press, 2000, tt.
82-83.) Sửa soạn xong xuôi, BVN
triệu tập Đại hội III đảng LĐ tháng 9-1960, quyết định tấn công NVN.
Các lãnh tụ TC không khác gì
các vua chúa Trung Hoa ngày xưa, luôn luôn nuôi mộng bành trướng xuống
ĐNÁ. Lịch sử cho thấy quân đội Trung
Hoa không thắng được quân đội Đại Việt trên đường bộ, nên lần nầy TC nghĩ
đến chiến lược khác, nhìn ra Biển Đông để tìm đường xuống ĐNA.
Tại Hội nghị hòa bình San
Francisco 1951, TC nhờ Liên Xô đưa ra đòi hỏi các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa thuộc TC, nhưng bị bác bỏ.
Trong khi đó, chính phủ QGVN lên tiếng xác nhận chủ quyền hai quần
đảo nầy là của QGVN, thì không bị hội nghị phản đối. Sau đó, năm 1958 Mao Trạch Đông tuyên bố
rằng: “Hiện nay, Thái Bình Dương
không yên ổn. Thái Bình Dương chỉ
yên ổn khi nào chúng ta làm chủ nó.” (“Now the Pacific Ocean is not peaceful. It can only be peaceful when we take it
over.”) (Jung Chang and Jon
Halliday, The Unknown Story MAO,
New York: Alfred A. Knopf, Publisher, 2005, tr. 426.) Trong cuộc họp với đại diện đảng LĐVN năm 1963, MTĐ nói: “Tôi sẽ là chủ
tịch của 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam Á.”
Tháng 8-1965, trong cuộc họp của Ban Chấp hành Trung ương đảng CSTQ, MTĐ tuyên bố: “Chúng ta phải giành cho được ĐNÁ, bao gồm cả miền Nam
Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Mã Lai, Singapore…” (Sự thật về quan
hệ Việt Nam – Trung Quốc 30 năm qua, Hà Nội: NXB Sự Thật, 10-1979, Chương “Việt Nam trong chính sách Đông
Nam Á của Trung Quốc”.)
Thời cơ thuận tiện cho TC
hành động khi Hoa Kỳ (HK) mở cửa cho TC vào Liên Hiệp Quốc (LHQ) năm 1971,
bắt tay với TC năm 1972, ký thông cáo chung Thượng Hải ngày 28-2-1972,
quyết định rút hết quân khỏi Việt Nam cuối năm nầy và cắt giảm viện trợ cho
VNCH. Nhân vào đầu năm 1974, VNCH
bận rộn chống đỡ những cuộc tấn công mạnh mẽ của CSVN sau hiệp định Paris (27-1-1973), TC đánh chiếm
Hoàng Sa của VNCH trên Biển Đông ngày 19-1-1974.
Tuy biết lực lượng không cân
sức, nhưng Hải quân VNCH vẫn cương quyết bảo vệ Hoàng Sa. Thiếu tá Ngụy Văn Thà và đồng đội xông
pha chống ngoại xâm và hy sinh trên chiến trường. Trận Hoàng Sa chứng tỏ rõ ràng VNCH không
phải là tay sai của HK. Dù HK bỏ rơi
VNCH và bắt tay với TC, quân đội VNCH vẫn cương quyết chống TC, bảo vệ quê
hương. Trận chiến Hoàng Sa chứng tỏ
lòng yêu nước của quân lực VNCH, chiến đấu bảo vệ tổ quốc, bảo vệ độc lập
dân tộc, bảo vệ tự do dân chủ cho đất nước.
Sau trận Hoàng Sa, VNDCCH hay
BVN không phản đối TC. Tuy không có
mặt trong trận Hoàng Sa, nhưng BVN là kẻ dẫn đường cho TC đến Hoàng Sa vì
công hàm PVĐ ngày 14-9-1958 đã thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa thuộc
TC. Hơn nữa, chẳng những BVN vay nợ
TC, mà tháng 6-1965 BVN còn nhờ TC gởi qua BVN 320,000 quân để bảo vệ các
tỉnh thành phía bắc trong khi quân đội CSVN kéo xuống phía nam. (Qiang Zhai, China & the Vietnam Wars, 1950-1975, The University of
Carolina Press, 2000, tr. 135.) Thật
là ngu xuẩn khi nhờ cậy một tên ăn cướp giữ nhà, mà tên ăn cướp nầy vốn là
kẻ thù truyền kiếp của dân tộc Việt Nam, đã nhiều lần cướp phá nước ta.
Đây là lần đầu tiên TC chiếm
được hải đảo của Việt Nam, đột phá xuống Biển Đông, nhằm kiếm đường tiến
xuống Đông Nam Á (ĐNA). Đặt trận
Hoàng Sa trong toàn bộ cuộc chiến 1946-1975, mới thấy rõ trận Hoàng Sa là
trận chiến chống ngoại xâm duy nhứt, do VNCH cương quyết chống TC xâm
lăng.
BIỂU TƯỢNG HỘI TỤ LÒNG YÊU NƯỚC
Trước đây, chế độ CS kiểm
soát chặt chẽ truyền thông, bưng bít tin tức, tuyên truyền và tố cáo VNCH
là ngụy quân, ngụy quyền, làm “tay sai đế quốc Mỹ”, còn Mỹ là “đế quốc xâm
lược”. Chế độ CS cũng che giấu công
hàm PVĐ và trận Hoàng Sa ngày 19-1-1974.
Dân chúng dưới chế độ CS trước 1975 hoàn toàn không biết tin tức
ngoài thông tin CS. Trong những năm
gần đây, TC đe dọa Biển Đông, vấn đề Hoàng Sa rộ lên trở lại. Nhờ truyền thông điện tử (Internet) phát
triển rộng rãi, dân chúng mới biết được sự thật lịch sử. Từ đó dân chúng trong nước nhận ra các
điều quan trọng làm thay đổi nhận thức của dân chúng:
1) Chế độ VNCH và quân lực VNCH không tấn
công BVN, mà chỉ ở thế tự vệ, chiến đấu chống cuộc xâm lăng của BVN, bảo vệ
quê hương, tự do, độc lập cho chính mình, chiến đấu chống TC chống ngoại
xâm, quyết tâm bảo vệ Hoàng Sa, không làm tay sai cho bất cứ ngoại bang
nào. VNCH và quân lực VNCH rõ ràng là một chế độ chính nghĩa và một quân
lực chính nghĩa.
2) Cộng sản Việt Nam tuyên truyền rằng Hoa
Kỳ (HK) là “đế quốc xâm lược”,
nên CSVN mở cuộc chiến tranh “chống
Mỹ cứu nước”. Ngày nay dân Việt
nhận biết rằng HK không phải là đế quốc xâm lược. Hoa Kỳ không xâm lăng nước nào, mà còn
giúp nhiều nước sau thế chiến thứ hai như Đức, Nhật Bản, Triều Tiên phục
hưng kinh tế. Hoa Kỳ đến NVN để giúp
NVN xây dựng và phát triển sau 1954.
Khi BVN tấn công NVN năm 1960, thì 5 năm sau, HK mới đem quân vào
NVN năm 1965, giúp NVN tự vệ chống BVN tràn xuống NVN, chứ HK không xâm
lăng NVN và cũng không xâm lăng BVN.
Hoa Kỳ dùng máy bay tấn công BVN chỉ nhằm mục đích chận đứng cuộc
xâm lăng của BVN vào NVN.
3) Chế độ CSVN định nghĩa rằng “yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa”. Gần đây, ngày 29-12-2014, tổng bí thư
đảng CSVN nói tại Đại hội 7 Hội Liên Hiệp Thanh Niên tại Hà Nội rằng thanh
niên “có “tâm” là có lòng yêu nước,
yêu chế độ”. Tuy nhiên, chế độ
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) hiện nay ở trong nước, về đối
nội thì độc tài đảng trị, áp bức và tham nhũng; về đối ngoại thì làm tay
sai cho TC, càng ngày càng làm mất đất, mất đảo, mất biển. Như thế yêu XHCN, yêu chế độ CS chỉ là
tiếp tục bị cảnh độc tài, áp bức, tham nhũng, dân oan và chế độ XHCN tiếp
tục bán nước chứ không phải là yêu nước.
Nói cách khác, yêu XHCN là phản quốc chứ không yêu nước.
4) CSVN tuyên truyền rằng TC
là một nước XHCN anh em. Đã là anh
em XHCN với nhau, sao TC lại ức hiếp nhau, chiếm đất, chiếm đảo, chiếm biển
của nhau? Như vậy, TC không thân hữu
như lời CSVN tuyên truyền, mà TC lộ nguyên hình là kẻ thù xâm lược truyền
kiếp như vua chúa Trung Hoa ngày xưa.
Ngày nay, nhờ Internet, tầm
nhìn của dân chúng trong nước mở rộng và hiểu rõ các điểm trên đây, hiểu rõ
tình hình chính trị. Từ đó đồng bào
hết sức ca tụng lý tưởng tự do dân chủ và độc lập của VNCH, ca tụng quân
đội VNCH, ca tụng trận chiến Hoàng Sa chống TC xâm lược. Các bloggers và Face-books diễn tả hết
sức sống động tâm tình của dân chúng.
Ví dụ sinh viên Lê Trung Thành đã viết: "Các anh ơi!Các chị ơi! Các
mẹ ơi! Còn cờ đỏ sao vàng thì không bao giờ có độc lập, tự do, hạnh phúc.”
(đăng trên các web site13-03-2009.)
Một nhà tranh đấu trẻ tuổi khác thì đề cao chính nghĩa quân đội
VNCH, và đi đến kết luận: "Tôi
gọi họ là những anh hùng.” (Đặng Chí Hùng, “Tôi gọi họ là những anh
hùng”, Dân làm báo
30-3-2013.). Tương tự như thế, một
người dân Hà Nội viết: “Người ta gọi
các anh là “quân ngụy”,/ Bởi các anh là lính Việt Nam Cộng Hòa./ Nhưng tôi
gọi các anh là liệt sĩ,/ Bởi các anh ngã xuống vì Hoàng Sa.” (http://phanduykha.wordpress.com,
Phan Duy Kha, “Sẽ có một ngày lấy lại Hoàng Sa”, 14-1-2014.) Còn rất nhiều ví dụ mà chúng ta không thể
trưng dẫn hết ở đây.
Vì vậy, có thể nói trận Hoàng
Sa ngày 19-1-1974 chống ngoại xâm trở thành biểu tượng hội tụ lòng yêu nước
của toàn thể người Việt ngày nay.
Qua thế kỷ 21, khuynh hướng chung trên thế giới khuyến khích những
cuộc tranh đấu bất bạo động hơn là việc sử dụng bạo lực. Người Việt Hải ngoại chúng ta hãy tích
cực yểm trợ tinh thần cũng như yểm trợ vật chất tất cả những cuộc tranh đấu
bất bạo động của dân chúng trong nước, đòi hỏi tự do dân chủ, nhân quyền và
dân quyền, nhằm đi đến giải thế chế độ CSVN.
THỬ NHÌN VỀ TƯƠNG LAI
Thế là TC đã chiếm được Hoàng
Sa. Là người Việt Nam, ai cũng muốn
giành lại lãnh thổ đã mất. Trong
hiện tình đất nước, giành lại Hoàng Sa thật là khó khăn vì phải qua hai cửa
ải, hai giai đoạn.
Thứ nhứt là CHXHCNVN. Về pháp lý, tuy nắm được đầy đủ hồ sơ,
tài liệu chứng minh Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam, nhưng CHXHCNVN
không dám kiện TC ra Tòa án quốc tế để đòi lại Hoàng Sa. Ngày 19-11-2014, thủ tuớng CSVN chỉ dám
tuyên bố “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”. Sau đó, ngày 11-12-2014, phát ngôn viên
Bộ Ngoại giao CHXHCNVN ra tuyên bố đề nghị Tòa án Trọng tài Thường trực
(Permanent Court of Arbitration) Liên Hiệp Quốc tại La Haye (Hòa Lan) quan
tâm đến các quyền lợi và lợi ích pháp lý của Việt Nam trên Biển Đông. Hành động nầy được nhà bình luận người Úc
Carlyle Thyer gọi là CHXHCNVN “lách
bằng cửa sau” vào vụ kiện giữa Phi Luật Tân và TC. (RFI 12-12-2014).
Trong khi đó, CSVN thẳng tay
đàn áp những cuộc biểu tình, những bloggers, face-books chống TC, trấn áp
tinh thần yêu nước của dân chúng. Vì
vậy nếu còn CSVN thì không bao giờ có thể đòi lại Hoàng Sa mà phải dứt
khoát chấm dứt chế độ CSVN, mới thoát ra khỏi những cam kết ngầm của HCM
khi cầu viện TC năm 1950, hủy bỏ công hàm PVĐ ngày 14-9-1958, chấm dứt mật
ước Thành Đô của tập đoàn Nguyễn Văn Linh năm 1990, chấm dứt cảnh lệ thuộc
TC, mới có thể chống TC và kiện TC ra tòa án quốc tế. Hiện nay ở trong nước, dân chúng đang
truyền nhau câu đồng dao: "Con
ơi nhớ lấy lời cha, / Hễ còn cộng sản, Hoàng Sa còn Tàu.”
Thứ hai là TC. Hiện nay, TC mới trổi dậy và rất hưng
thịnh. Tuy nhiên trong sự hưng thịnh
hiện nay, về đối nội TC cũng gặp bất ổn vì dân chúng trong nước ngấm ngầm
tranh đấu chống độc tài, và vì các sắc dân chung quanh bị TC sáp nhập như
Mãn Châu, Nội Mông, Tân Cương, Tây Tạng luôn luôn tìm cách nổi lên đòi độc
lập.
Về đối ngoại, chính vì đang
hưng thịnh, quá tự tin, TC càng ngày càng hung hăng trên Biển Đông, chẳng
những khiêu khích đe dọa các nước láng giềng, mà vào tháng 5-2009, TC gởi
cho tổng thư ký LHQ một công hàm yêu cầu chuyển cho tất cả hội viên LHQ,
rằng TC có chủ quyền không thể tranh cãi đối với các hải đảo trên Biển Đông
và các vùng biển liền kề, kèm theo bản đồ 9 khúc do TC thực hiện, nối liền
các hải đảo mà TC tự cho là của TC trên Biển Đông. [Sách báo thường gọi
đường 9 khúc là đường chữ U hay Lưỡi bò.]
Năm 2011, TC gởi cho LHQ một công hàm nữa, cũng gần giống công hàm
trước, yêu cầu thông báo cho toàn thể hội viên LHQ.
Hành động nầy đi ngược lại
quyền lợi chung trên thế giới do luật quốc tế về biển quy định. Chẳng những Nhật Bản ở Đông bắc Á, các
nước ĐNÁ mà cả HK cũng không chấp nhận đường chữ U do TC vẽ ra. Ngày 4-12-2014, Hạ viện HK thông qua với
đa số tuyệt đối 100% nghị quyết H.RES.744, nhấn mạnh cần phải tìm giải pháp
hòa bình trên nền tảng luật pháp quốc tế trong các cuộc tranh chấp lãnh
thổ, hải đảo trên Biển Đông. Hôm
sau, ngày 5-12-2014, Bộ Ngoại giao HK đưa ra Bản nhận định dài 24 trang về
yêu sách đường chữ U của TC. Câu kết
luận cuối cùng của bản nhận định như sau: “…đòi hỏi về đường gạch nối [đường lưỡi bò, chữ U, 9 khúc] không phù hợp với luật quốc tế về biển.”
(Nguyên văn: “…its dashed-line claim
does not accord with the international law of the sea.”) Ngày 23-12-2014, khi trả lời thỉnh nguyện
thư ngày 13-5-2014 của 139,554 chữ ký, Tòa bạch ốc khẳng định: “Hoa Kỳ có lợi ích quốc gia tại Biển
Đông, trong đó bao gồm tự do hàng hải, giải quyết các tranh chấp một cách
ôn hòa, tôn trọng luật pháp quốc tế và thương mại hợp pháp diễn ra thuận
lợi…Chúng tôi đã bày tỏ quan ngại trước các hành động của Trung Quốc, trong
đó bao gồm việc triển khai giàn khoan Hải Dương 981, đến các cấp lãnh đạo
cao nhất của Trung Quốc". (BBC
Tiếng Việt, 24-12-2014)
Hiện nay, tuy trổi dậy và
hung hăng, TC không đồng minh với ai cả, tự cô lập. Nếu có một biến cố xảy ta ở nội địa TC,
hoặc nếu có một cuộc tranh chấp kinh tế, hay một biến cố ngoại giao bất ngờ
bùng nổ, các nước liên minh áp lực TC bằng những biện pháp kinh tế như hiện
áp lực Nga, thì TC có thể sẽ khốn đốn và có thể sẽ đổ vỡ thành nhiều mảnh
như Liên Xô trước đây. Khi đó, Việt
Nam mới có thể lợi dụng thời cơ, chiếm lại Hoàng Sa và Trường Sa.
KẾT LUẬN
Do hoàn cảnh chính trị thế
giới, VNCH tạm thời thất bại năm 1975, nhưng chính nghĩa dân tộc, lý tưởng
tự do dân chủ của VNCH là chân lý vĩnh hằng, và là ước mơ của toàn dân Việt
Nam.
Chế độ CSVN càng khiếp nhược
trước TC, dân chúng Việt Nam càng thương tiếc những chiến sĩ Hoàng Sa. Trận hải chiến Hoàng Sa là niềm tự hào
dân tộc và là biểu tượng hội tụ lòng yêu nước, dẫn đường cho toàn dân Việt
Nam đoàn kết tranh đấu giải thể chế độ CS, mới có thể đòi lại đất đai, quần
đảo đã mất vào tay TC. Trận chiến
Hoàng Sa ngày 19-1-1974 giữ một vị trí lịch sử vô cùng quan trọng trong
công cuộc vận động phục hưng đất nước.
Xin thành kính tri ân sự hy sinh của Ngụy Văn Thà và các chiến sĩ
Hoàng Sa.
TRẦN GIA PHỤNG
(San Jose, 17-1-2015)
|