THANH VÀ
TỤC TRONG THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG
Ngồi buồn nhớ
chị Xuân Hương
Hồn thơ còn hãy
như nhường trêu ai..
Giấc mộng con
của Tản Đà
Từ thời dựng nước dân tộc
Việt Nam luôn luôn có truyền thống chiến đấu
chống ngoaị xâm dành độc lập bảo vệ
quê hương, trong quá trình đó người phụ
nữ cũng đã đóng góp rất đáng kể, tiêu
biểu là cuộc khởi nghiã của Hai Bà Trưng (40-30
trước CN) và Bà Triệu (năm 248) với những
chiến tích oai hùng trong lịch sử Việt Nam. Những
thế hệ kế tiếp các bậc nữ lưu
cũng giúp việc nước, lo việc nhà và đã
đóng góp cho lâu đài văn hóa dân tộc như các các nhà
thơ nổi tiếng: Đoàn Thị Điểm dịch
giả Chinh Phụ Ngâm khúc của Đặng Trần Côn,
Ngọc Hân công chúa với Ai Tư vãn. Lưu thị
Hiền (bà Phủ Ba) Ngô Chi Lan Ỷ Lan Phu nhân, Huyện
Thanh Quan, Sương Nguyệt Ánh…, trong đó nữ sĩ
Hồ Xuân Hương ở thế kỷ thứ 18 nổi
tiếng là Bà Chúa Thơ Nôm [1]
Hồ Xuân Hương và
thân phận
Hồ Xuân Hương con ông Hồ Phi Diễn 胡丕演 (1703-1786)[2]
ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ
An. Ông thi đậu tú tài năm 24 tuổi triều
đại Lê Bảo Thái và dạy học ở Hải
Hưng, Hà Bắc. Tại đây ông đã lấy cô gái
Bắc Ninh họ Hà làm vợ thứ, sinh ra Hồ Phi Mai (1772-1822), nghiã là Hoa mai bay trên hồ, bút
hiệu Xuân Hương, lúc Xuân Hương 13 tuổi thân
phụ mất, bà rời làng Khán Xuân theo mẹ về làng
Thọ Xương gần Hồ Hoàn Kiếm, đi học
một thời gian sau đó ở nhà giúp việc. Xuân Hương
tự học thêm, nhờ thông minh làm thơ hay, tiếng
tăm lừng lẫy. Tổng Kình tên tự Nguyễn Công
Hòa, ở làng Tứ Xã (huyện Phong Châu, Vĩnh Phú), khi
bé tên Cóc, sau nầy HXH gởi bài thơ „Khóc
Tổng Cóc“ nên từ đó dân làng gọi ông là Tổng Cóc.
Chuyện tình của bà
với Tổng Cóc trở thành giai thoại, thân phụ
của Xuân Hương là nhà giáo thời ấy gọi
cụ Đố Xứ, Tổng Cóc và một số chàng
trai khác chiều 30 Tết mang qùa biếu tết cụ
Đồ, bị Xuân Hương ra câu đối
„ Tối ba mươi khép
cánh càn khôn kẻo nữa ma vương đưa quỷ
tới“
Tổng Cóc đối lại:
„Sáng mồng một
mở then tạo hoá để cho thiếu nữ
rước xuân vào“
Được cụ Đồ Xứ khen hay, có
thể Xuân Hương mến mộ chàng có khiếu văn
chương? Tổng Cóc đã lập gia đình nhưng là
người có tiếng ăn chơi, tính tình nghệ sĩ
thích văn thơ cưới Xuân Hương làm thứ
thiếp. Tổng Cóc yêu thương vợ làm cái nhà
thủy tạ cho bà trông coi ao cá và bảo nàng làm thơ
viết vào gỗ, hiện nay tại nhà thờ của ông
Kiều Phú, thôn Đại Đình, xã Sơn Dương,
Phong Châu, Vĩnh Phú còn tấm ván mít ghi những nét thơ
Nôm của Hồ Xuân Hương. Nhà ông Bùi Văn Thắng
còn đôi bình và hai ống quyển ghi bút tích 4 câu thơ
trang nghiêm của HXH, nói đến tấm gương trong
trắng (như người con gái trong trắng) khi xuân
hết thì thợ trời cũng chịu. Chỉ còn
biết dựa vào phúc đức …. khi ấy hương
thơm sẽ tỏa khắp muôn nơi[3].
Thảo lai
băng ngọc kính
Xuân tận
hoá công hương
Độc
bằng đan quế thượng
Hào phóng bích
hoa hương
nghiã
Nói
đến tấm gương bằng ngọc
Hóa công
cũng chịu lúc tàn xuân
Chỉ bằng lúc vin cành quế
đỏ
Tha
hồ hoa biếc tỏa hương thơm
Xuân
Hương bản tính nghệ sĩ giao tiếp rộng,
không thể vượt đời sống của làng
quêtrọng nam khinh nữ, bởi vậy vợ chồng
không tránh được việc va chạm hằng ngày trong
xã hội phong kiến „Đau đớn thay phận
đàn bà! Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu“.
Xuân Hương bị vợ lớn ghen tương, gia
đình chồng đè nén vì thân phận làm thứ thiếp.
Nên bà chán ngán cảnh chồng chung bỏ nhà ra đi.
Kẻ
đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy
chồng chung!
Năm thì
mười hoạ chăng hay chớ
Một tháng
đôi lần có cũng không
Cố
đấm ăn xôi, xôi lại hẩm
Cầm
bằng làm mướn, mướn không công
Thân nầy
ví biết dường nầy nhỉ
Thà
trước thôi đành ở vậy xong
Giáo sư John Balaban dạy
đại học North Carolina ở Raleigh, cũng là
nhà thơ dịch“ bài lấy chồng chung“ của Hồ Xuân Hương „Spring Essence“ the Poetry
of HXH (nhà xuất bản Copper Canyon Press, 2000)
On Sharing a Husband
Screw the fate that makes you share a man.
One cuddles under cotton blankets; the
other’s cold.
Every now and then, well, maybe or maybe
not.
Once or twice a month, oh, it’s like
nothing.
You try to stick to it like a fly on rice
but the rice is rotten. You slave like the
maid,
but without pay. If I had known how it
would go
I
think I would have lived alone.
Chẳng riêng gì Xuân Hương,
thân phận của người vợ thứ trong dân gian
cũng là một nỗi buồn truyền kiếp:
Tối
tối chị giữ mất buồng
Chị
cho manh chiếu nằm suông chuồng bò
Mong chồng, chồng chẳng xuống cho
Đến khi chồng xuống gà o o gáy dồn...
Hồ Xuân Hương mở quán
làm kế sinh nhai, khách hâm mộ văn tài bà đến cùng
xướng họa, có nhiều chuyện tình trở thành
giai thoại. Xuân Hương lãng mạn, phóng khoáng bà
muốn vượt qua bức tường nho giáo khắc
nghiệt, nhưng không tránh được cái nghiệp tình
duyên ngang trái. Xuân Hương gặp ông phủ Vĩnh
Tường và làm bài thơ giã từ “khóc Tổng Cóc“.
Chàng Cóc ơi! Chàng Cóc ơi!
Thiếp bén duyên chàng có thế
thôi
Nòng nọc đứt đuôi
từ đây nhé
Nghìn vàng khôn chuộc dấu bôi
vôi.
Bài
„khóc Tổng Cóc“ gây nhiều dư luận trong văn
học, những người ở làng Gáp cho rằng bài
thơ đó khóc cho mối tình đầu của bà,
từng khổ đau với hoàn cảnh làm vợ trong gia
đình Tổng Cóc nên dùng những từ ngữ chỉ
họ hàng nhà Cóc nào là nòng nọc đứt đuôi, để
giễu Tổng Cóc (thơ gởi
Tổng Cóc lúc còn sống chứ không phải khóc
người chết). Một lần nửa Xuân
Hương lập gia đình với ông phủ Vĩnh
Tường cũng làm thứ thiếp, không tránh
được cảnh khổ ghen tương cay
độc như Hoạn thư:
Rằng tôi chút dạ đàn bà,
Ghen tuông, thì cũng người ta thường
tình
Lòng riêng, riêng cũng kính yêu.
Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai
Kiều của Nguyễn Du
Thời gian
sống với ông phủ Vĩnh Tường (ở
Thổ Tang, Vĩnh Phú) ông Phủ xem nàng là bạn văn
chương. Nhưng số phận của Xuân Hương
không được may mắn, cuộc tình ngắn ngủi hơn 2
năm sau phải khóc chồng, chồng chết là nỗi
khổ đau nhất của người thiếu phụ,
thương cho thân phận kẻ ở người đi.
Xuân Hương buồn khổ trước cảnh nhà
lạnh lẽo đơn côi, bà trang trải nỗi bi
thương của mình trên những dòng thơ buồn não
nuột, là tiếng nấc nghẹn ngào của người
góa phụ vĩnh viễn xa chồng:
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi!
Thiếp bén duyên nàng có thế thôi
Chôn chặt văn chương ba thước
đất
Ném tung hồ thỉ bốn phương trời
Cán cân tạo hoá rơi đâu mất;
Miệng túi càn khôn thắt lại rồi
Hăm bảy tháng trời là mấy chốc;
Trăm năm ông Phủ Vĩnh Tường ơi!
Thơ và bạn đời
Các tác phẩm của bà
bị thất lạc, đến nay còn lưu truyền
những bài thơ chữ Nôm trong Xuân Hương Thi Tập, năm 1964 ông Trần Thanh Mại phát
hiện thêm tập thơ chữ Hán Lưu
Hương Ký 瑠香記 viết năm
Giáp Tuất (1814). Hồ Xuân Hương là nhà thơ sử
dụng chữ nôm một cách điêu luyện và sắc xảo, ít người sánh
kịp. Bà thường chọn những âm khó đọc
để hạ vần nói lái, nghiã bóng thành những bài
thơ rất tài tình và đầy thú vị trong đó ý
thơ và tình thơ bao
gồm: đạo đức, tiếu lâm, hay châm biếm,
độc đáo có một không hai trong văn chương
bác học. Phần xướng hoạ có lẫn thơ
của văn nhân thời bấy giờ để lại
số đề tài khúc chiết, nồng nàn yêu
đương. Cổ Nguyệt Hương Đình do Xuân
Hương dựng lên ở phường Khán Xuân gần
Hồ Tây khu vực vườn Bách Thảo, trường
Bưởi đường Cổ Ngư làng Yên Phụ. Thơ tả chân táo bạo
diễn tả ý tưởng lả lơi bỡn cợt,
vừa thanh vừa tục mà
không kém phần lãng
mạn. Tình yêu, tình
bạn của Xuân Hương có rất nhiều nghi
vấn, khó xác định cảnh đời từng
trải của Xuân Hương. Các tài liệu dẫn
chứng Xuân Hương giao du rộng
rãi với những danh sĩ như Phạm Quí Thích
(khắc và in thơ của Nguyễn Du), Nguyễn Huy
Tự (Tác giả Hoa Tiên), Nguyễn Du, Mai Sơn Phủ,
Tốn Phong, Cư Ðình, Trần Quang Tĩnh, và Trần Phúc
Hiển, v.v. Học
giả Hoàng Xuân Hãn dẫn chứng bà có 3 đời
chồng, người cuối cùng là Tham hiệp trấn
Trần Phúc Hiến? Trong vấn đề xướng
họa thơ văn, một đối thủ của Xuân
Hương được lưu lại là Chiêu Hổ
tức Phạm đình Hổ (1768-1839), là tác giả Vũ
Trung Tuỳ Bút, bút hiệu Chiêu Hổ, lần ông
đến thăm Xuân Hương có ý sổ sàng bị Xuân
Hương chê suồng sã
Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay..
Hùm có nghiã là hổ, Chiêu Hổ bị Xuân Hương chơi chữ, ông không
chịu thua cợt nhả đối lại:
Này ông đồ tỉnh, nầy ông
đồ say,
Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày!
Hang hùm ví bẵng không ai mó,
Sao có hùm con ẵm chốc tay?
Năm
1842 Tùng Thiện Vương ra thăm cảnh Hồ Tây có
làm bài thơ viếng mộ Xuân Hương „Long Biên Trúc Chi
Từ“ bản dịch ra Việt ngữ của học
giả Hoàng Xuân Hãn
Đây hồ rực rỡ hoa sen
Sai người xuống hái để lên cúng đàn
Chớ trèo qua mộ Xuân Hương
Suối vàng còn giận tơ vương lỡ làng
Sen tàn, phấn rữa mồ hoang
Xuân Hương đã khuất bên làn cỏ xanh
U hồn say tít làm thinh
Gío xuân mấy độ thế
tình không hay!
Ngày nay không thể tìm mộ
của bà, tuy nhiên người ta dựng bia để
tưởng niệm nữ sĩ Xuân Hương
Những
nét tiêu biểu trong thơ Hồ Xuân Hương
Hồ
Xuân Hương trưởng thành trong giai đoạn
lịch sử chiến tranh, ảnh hưởng nặng
nề phong kiến “nhất nam viết tử thập
nữ viết vô”. Đàn bà ít được đi
học, ứng thí như đàn ông, may mắn học ít
chữ, lấy chồng sanh con lo việc nội trợ.
Xuân Hương đã tỏ ra là một thiên tài, làm thơ
khẩu khí khi bà bị trợt té người ta
cười, bà làm ngay hai câu thơ để chữa
thẹn:
Giơ tay với thử trời cao thấp
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài
Hồ Xuân Hương thông minh, có tài nhưng tiếc
thay sinh ra phận gái nên cái lỗi lạc của bà thành ra
lãng mạn mà lắm người cho là “lẳng lơ“!
Đọc mấy câu thơ sau của bà, dũng khí như
một đấng tu mi nam tử. Khi XH đi qua miếu
Sầm Nghi Đống tại Loa Sơn, là tên Thái thú quân nhà Thanh thua trận
thắt cổ chết trên cây đa
ở gò Đống Đa mùng 5 tháng giêng năm Kỷ
dậu 1789. Người Hoa lập miếu thờ, tin
đồn miếu linh thiêng nên Xuân Hương đề
mấy câu thơ[4]
:
Ghé mắt trông nghiêng thấy bảng treo
Kià đền Thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?
Xã
hội thời phong kiến người ta quan niệm „trai
năm thê bảy thiếp, gái chín chuyên chỉ một
chồng“ thật là bất công! vấn đề đa
thê ngày nay không được chấp nhận (ngoại
trừ các nước theo Hồi Giáo). Ngày xưa chồng
chết vợ phải thủ tiết thờ chồng. Xuân
Hương muốn phá cái phong tục thời đó, nên lúc
sống với ông Phủ Vĩnh Tường, có
người góa phụ còn trẻ muốn được tái
giá, làm đơn xin quan phủ xét, gặp lúc ông phủ
đi vắng, Xuân Hương xem đơn và phê ngay :
Phó cho con Nguyễn thị Đào
Nước trong loe lẻo cắm sào chờ ai?
Chữ rằng xuân bất tái lai
Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già.
Tuy nhiên có tài liệu
cho giai thoại nầy là của bà Huyện Thanh Quang,
nhưng theo nhận xét chung lối hành văn nầy không
thể nào của bà Huyện Thanh Quang?
Những bài thơ tuyệt tác của Xuân Hương
được lưu truyền hậu thế. Biệt tài
thơ Xuân Hương dùng chữ Việt thuần tuý, không
vay mượn điển tích sáo ngữ, đọc thơ
hiểu được nghiã đen và nghiã bóng.
Bài „Ngủ quên
hay ngủ ngày„ Thiếu nữ nằm nghỉ buổi
trưa hè trời nóng, cơn gió nồm mát rười
rượi làm nàng ngủ
quên, giấc ngủ say sưa vô tình bày ra thân hình trẻ
trung, mơn mởn da thịt với những
đường nét tuyệt vời sống động...
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng
Lược trúc chải cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương
long
Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở ở không xong.
Cái
đẹp bất cứ ở đâu đều
được mọi người yêu chuộng,
người trần tục thấy hoa đẹp ai không
muốn nhìn? Bồng Đảo, Đào Nguyên là cảnh tiên,
Lạch Đào Nguyên suối hoa đào đều là cái
đẹp của sự sống. Từ xưa và nay
nhiều nhà phê bình bàn cãi tranh luận về thơ Xuân
Hương mang tính chất dâm và tục, sinh lý bị đè
nén “Libido”.Ngược laị người yêu thơ Xuân
Hương thường hết lời ca tụng, xem những sáng tác của Xuân
Hương kỳ diệu từ cách dùng chữ chính
xác, âm điệu kỳ tài.
Cái đặc điểm trong thơ Xuân Hương là
tả cái tục nhưng dùng toàn chữ thanh, nếu
đọc bốn 4 câu thơ sau người ta hiểu
tả một ông quan võ nhưng không phải vậy.
Bác mẹ sinh ra vốn chẳng hèn
Ban đêm không mắt sáng như đèn
Đầu đội nón da loe chóp đỏ
Lưng đeo bị đạn rủ thao đen
tựa là “dương vật”
Để có thể thẩm
định thế đứng của nhà thơ nầy, nói
về Văn học không thể đọc một số
bài thơ rồi cho là dâm tục có quá đáng chăng?
Bởi vì vấn đề Tình Dục từ Á sang Âu
thường được trình bày qua các tác phẩm
văn chương, những hình vẽ, tượng
điêu khắc chạm trổ trong các Cung điện,
Đền đài lưu lại từ ngàn năm về
trước có những nét đẹp độc đáo
như thân thể đàn bà qua những đường cong
tuyệt vời, bộ ngực no tròn lồ lộ
dưới lớp xiêm y mỏng manh .. những tác phẩm
đó thể hiện linh động nét văn hóa và sắc
thái mang tính chất diễn tả về nghệ thuật.
Mỗi dân tộc văn minh có sinh hoạt văn hoá khác
nhau. Nhiều sắc dân họ thờ các bộ phận sinh
dục, dân tộc Chàm xây các Tháp theo hình tượng Lingam
(dương vật) tình dục được nói bình
thường trong sinh hoạt của con người.
So sánh Thơ Xuân Hương
với thi ca bình dân tục và thanh
Xã hội bình
dân xưa không thoát khỏi qui luật dục vọng cá nhân
là lẽ sống con người, dục vọng tập
thể là lẽ sống của xã hội. Bởi vậy ca
dao được truyền tụng trong dân gian:
Có
chồng từ thuở mười lăm.
Chồng
chê tôi nhỏ không nằm cùng tôi.
Đến
chừng mười chín đôi mươi.
Tôi ngủ dưới đất
chàng lôi lên giường
Một
rằng thương, hai rằng thương
Có bốn
cẳng giường gãy một còn ba!
Ca
dao
Đời
sống con người được diễn tả qua
thi ca trào lộng, vui cười vốn có trong thực
tế không nói xa gần, hằng ngày người ta dùng cái
điếu cày hút thuốc Lào, mồi đóm lửa, kéo một hơi dài, nghe tiếng
róc rách của nước…. Họ nhả những sợi
khói từ từ và cảm thấy người bồng
bềnh lướt nhẹ trên mây? tay mân mê xoa xoa thân
điếu như người bạn thân:
Lòng em cay
đắng quanh năm
Khi ngồi, khi
đứng, khi nằm nghênh ngang
Các anh các bác
trong làng
Gặp em thì lại vội vàng nâng niu
Vắng em
đau khổ trăm chiều
Tuy rằng
cay đắng nhưng nhiều người mê
Ca dao
Trạng Quỳnh với bài
tạ ơn cô hàng bánh:
Đương
cơn nắng cực đói lòng thay
Thết
đãi ơn cô có bụng nầy
Giờ
biết lấy gì mà tạ lại
Xin
quỳ hai gối chống hai tay
Sinh hoạt xã hội bất kỳ ở tầng
lớp nào, dục tính cá nhân vẫn len lỏi vào cuộc
sống. Cái khác biệt toàn thể về bản chất
không ai giống ai. Hồ Xuân Hương người
trần tục nên ca tụng sinh họat trần tục và
những niềm vui trần tục, đọc thơ Xuân
Hương để tiếp nhận cái tinh thần
hồn nhiên trong ca dao, tục ngữ. Tôi Không đào sâu cái
„tục“ trong thơ làm đề tài chính. Thơ Xuân
Hương rất sống động tài tình mang tinh hoa
khác biệt, đó là một giá trị tồn tại mãi mãi
trong lâu đài văn hoá dân tộc. Đọc hai bài thơ
đèo Ngang và đèo Ba Đội sau để so sánh hai
nữ sĩ:
Bước tới đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây
chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên
sông chợ (rợ) mấy nhà
Nhớ
nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương
nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân
đứng lại trời non nước
Một
mảnh tình riêng ta với ta
Huyện Thanh Quan
Chúng ta cảm nhận bài
thơ ấy hay nhẹ nhàng, trang nhã, bài nầy có 8 câu
nhưng vay mượn ý của hai câu chữ Hán
Dạ thính
đỗ quyên minh quốc quốc
Nhật
văn cô điểu khiếu gia gia
Nghiã là
Đêm nghe
đỗ vũ kêu quốc quốc
Ngày lắng gà rừng gọi gia gia
Hồ Xuân Hương vịnh
đèo Ba Đội là một bức tranh tả chân
đơn sơ nhưng sống động:
Một đèo, một đèo lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm
đià lá liễu giọt sương rơi
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mõi
gối chồn chân cũng muốn trèo
Bài
thơ nầy đọc qua độc giả có thể
nhận ra ngay đó là đèo Ba Đội, „một đèo,
một đèo lại một đèo“ từ màu sắc
“cửa son đỏ lóet; tùm hum, xanh rì, lún phún, lắt
lẻo“.. Xuân Hương đã tài tình tạo ra một
bức tranh sống động từ âm thanh đến màu
sắc. Nữ sĩ Xuân Hương là một nhạc
sĩ tài tình, phối hợp cả âm thanh, màu sắc, không
gian lẫn thời gian, tạo những nét đặc
sắc thông thường ít nghe điệp âm „hõm hòm hom, toen
hoẻn .. trong bài vịnh hang Cắc Cớ:
Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt làm đôi mảnh hỏm hòm hom
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió
thông reo vỗ phập phòm
Gịot nước hữu tình rơi lõm bõm
Con đường vô ngạn tối om om
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ
dòm
Giọt
nước từ những thạch nhủ rơi từng
giọt xuống vũng nước bên dưới lõm bõm,
con đường vào hang thiếu ánh sáng. Hàng năm có
Hội Chùa Thầy du khách không vào hang Cắc Cớ thì coi
như chưa biết Chùa Thầy.
Xuân Hương cũng vịnh
cảnh Chùa Hương Tích ở huyện Mỹ
Đức Hà Đông rất linh động với cảnh
trời mây non nước..vào những ngày đầu xuân,
hội Chùa Hương nhộn nhịp, người tu hành
thì ít, kẻ trần tục thì nhiều, muốn lên chùa
phải trèo các bậc thang thì đúng hơn là đi, chen
chân trong động với hương khói pha mờ mù
sương.
Người quen cõi Phật chen chân xọc
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm...
Bài
„đánh đu“ bức tranh quê sống động tả
cảnh vui xuân rộn rã, Xuân Hương khen trò chơi
đánh du hấp dẫn gợi lên niềm say mê của ngày
hội, Hiện nay các làng ngoài Bắc còn duy trì trò chơi
nầy. Nhưng ngày xuân trôi qua cột nhổ đi rồi
lỗ bỏ không, chỉ còn lại cảnh trống không
hiu quạnh!
Bốn cột khen ai khéo khéo trồng
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới
Hai hàng châu ngọc duỗi song song
Chơi xuân ai biết xuân chăng tá?
Cột nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!
Có
thể Hồ Xuân Hương phỏng theo bài thơ trên
bài cây đánh đu vốn có trong tập Hồng
Đức Quốc Âm Thi Tập
Bốn
cột lang nha ngắm để trồng
À thì đánh cái ả còn ngong
Tế hậu thổ khom khom cật,
Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng
Tám bức quần hồng bay phất phới,
Hai hàng châu ngọc đứng song song
Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy
Nhổ cột đem về để lỗ không.
Chơi
đánh đu, khi chàng trai nhấn đu cô gái trong tư
thế tay nắm chặt, chân duỗi thẳng cho dễ
bay bổng. Khi độ cao giảm đến lượt
cô gái nhún, chàng trai lại chờ đón..tất cả
phải nhịp nhàng, khoẻ mà mềm mại bay cao ung
dung, vẻ đẹp càng hiện rõ hình thể bên ngoài
gối hạc, lưng ong, ngửa ngửa lòng, phất
phới, song song. Xuân Hương khéo dùng điệp khúc.
Trong ngôn ngữ Anh, Pháp, Đức không khi nào gặp cách
dùng chữ như trong văn chương Việt Nam. Chúng
ta thử đọc các bài dịch đối chiếu thi
sĩ Balaban có thể dịch cảnh thu, nhưng khó
chuyển dịch được hơi thu!
Cảnh thu
Thánh thót tầu tiêu mấy
hạt mưa,
Khen ai khéo vẽ cảnh tiêu
sơ.
Xanh om cổ thụ tròn xoe
tán,
Trắng xoá tràng giang
phẳng lặng tờ.
Bầu dốc giang sơn say
chắp rượu,
Túi lưng phong nguyệt
nặng vì thơ.
Ơ hay, cảnh cũng ưa
người nhỉ,
Ai thấy, ai mà chẳng ngẩn ngơ.
Autumn Landscape
Drop by drop rain slaps the banana leaves.
Praise whoever sketched this desolate
scene:
the lush, dark canopies of the gnarled
trees,
the long river, sliding smooth and white.
I lift my wine flask, drunk with rivers
and hills.
My backpack, breathing moonlight, sags
with poems.
Look, and love everyone.
Whoever sees this landscape is stunned.
From
Spring Essence the poetry of HXH
Qua ca dao có
nhiều bài truyền tụng nghe rất là „tục“ như
vịnh cái quạt:
Rành rành ba góc rành rành
Khi khép nhỏ lại, khi vành to ra
Khi vui thì sướng thay là
Khi buồn thì nước chảy ra rì rì..
Hồ Xuân Hương tả cái quạt duyên dáng
hơn, có tính cách tương tự như ca dao tục
ngữ hài hước, tả cái quạt có nhiều nan,
mỗi nan quạt có một cái lỗ, cây kim xâu các nan
quạt vào. Sau đó bồi bằng giấy có thể
xếp lại và xòe ra quạt cho mát, mưa sa nhẹ
hạt có thể che đầu, lúc xếp quạt lại
những nếp giấy chồng lên vẫn còn thừa. Xuân
Hương tả cái quạt chỉ tám câu thơ bút pháp
thật sinh động:
Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa
Duyên em dính dáng tự bao giờ
Chành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Mát mặt anh hùng khi nắng gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa ...
Thời
xưa mỗi gia đình ở thôn quê, thường
trồng cây bông, nuôi tằm, ươm tơ, làm lụa
tự dệt vải may áo quần. Ban ngày làm việc
đồng áng, đêm về dệt vải với dụng
cụ đơn giản cái khung cửi, hai ống
trục, một bộ go, hai cái lược, một đôi
guốc, con suốt, con thoi (con cò bằng gõ). Xuân
Hương tả cô gái dệt vải vào đêm; muốn
vải phẩm chất tốt phải ngâm lâu, ba mùa thu
cũng không bị phai màu.
Thắp
đèn lên thấy trắng phau
Con cò mấp máy suốt đêm thâu
Hai chân đạp xuống
năng năng nhắc
Một suốt đâm ngang thích thích mau
Rộng hẹp nhỏ to vưà vặn cả
Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ
Chờ đến ba thu mới dãi màu
Chùa Quán Sứ được xây
dựng từ thế kỷ thứ 17, nằm ở
phố cũng mang tên Quán Sứ Hà Nội. Dân tộc
Việt Nam ảnh hưởng Phật giáo dưới
thời nhà Lý rất hưng thịnh, Phật, Pháp màu
nhiệm không thay đổi, nhưng trong cõi đời
nầy không thiếu những kẻ “mạt tăng”
lợi dụng cửa Chùa rộng mở, cạo
đầu núp dưới lớp áo cà sa để buôn thần,
bán thánh…làm những việc trái với giáo lý nhà Phật.
Xuân Hương không chống phá đạo Phật, dùng
thơ văn để dỡn mặt với tăng
giả, hay sư hổ mang như trong ca dao:
Ba cô đội gạo lên Chùa
Một cô yếm thắm
bỏ bùa cho sư
Sư về sư ốm
tương tư,
Ốm lăn, ốm lóc nên
sư trọc đầu
Ai làm cho dạ sư sầu,
Cho ruột sư héo, cho
bầu đứt dây!
Cảnh chùa Quán Sứ
thời loạn làm cho Xuân Hương nghi ngờ
người đã xuất gia, tu lâu năm lên làm “Sư
Cụ” như “phiến đá vĩ đại “ bao che đệ
tử gây nên nghiệp chướng, không lo làm tròn
phận sự tụng kinh gõ mõ, bỏ cảnh chùa vắng
teo.
Quán sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi nao
Chày kình,(1) tiểu để suông không đấm
Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo
Sáng banh không kẻ khua tang mít (2)
Trưa trật nào ai móc kẽ rêu
Cha kiếp đường tu sao lắt léo
Cảnh buồn thêm chán nợ tình đeo
hay sư hổ
mang
……………………………
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm
choẹ
Giọng hi, giọng hỉ,
giọng hi ha
Tu lâu có lẽ lên Sư cụ
Ngất nghểu toà sen nọ
đó mà
(1) chày tạc
hình con cá kình bằng gỗ, thay cho cái dùi đánh chuông.
(2) Tang trống làm bằng gỗ mít
Nói chung người Phật
tử chân chính phải bực mình khi đến Chùa không có
thầy trụ trì hướng dẫn về phần tâm
linh, Sư đi gây phiền não cho bá tánh, dù ở bất
cứ thời đại nào cũng không thể chấp
nhận việc làm vô ý thức đó.
Người
đời nhớ Xuân Hương ở tiếng
cười phá phách, nhưng trong lòng Xuân Hương mang
nặng những niềm đau, khối tình nặng như
đá, với những tâm sự thế thái nhân tình làm rung
động, se thắc lòng người:
Gan nghiã giãi ra cùng nhật nguyệt
Khối tình cọ mãi với non
sông
Đá kia còn biết xuân già dặn
Chả trách người ta lúc trẻ trung
( Đá ông
chồng, đá bà chồng)
hoặc qua bài
tình tự
Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa đưa say
lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn!
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tý con con.
Xuân Hương vịnh bánh
trôi nước, thức ăn
quen thuộc của người bình dân. Thân em ở đây
(Xuân Hương) hay là thân phận đàn bà dưới
thời phong kiến lắm lận đận, nhiều long đong? nhưng tấm lòng
nàng vẫn giữ sắt son:
Thân em trắng phận em tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Lớn nhỏ mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
Thơ Hồ Xuân Hương có phong cách riêng, tiêu biểu
cho thái độ tự nhiên, tình cảm tràn đầy trong
sáng, thơ bà rất bình dân, duyên dáng giàu khả năng
gợi cảm, gợi tình, chứa chan tình tự và cảm
khoái, không dùng hán tự điển tích. Bà có biệt tài
sử dụng điệp khúc, âm điệu, tiết
tấu thích hợp với từng ý, từng hoàn cảnh.
Dù muốn chê hay khen, đọc thơ Xuân Hương ta
cảm thấy cái vui vui xen lẫn vào hồn, cái hay trong
thơ Xuân Hương rất tuyệt vời và phong phú, nhưng bài
viết giới hạn, tôi không thể trình bày và trích
giải hết được..Hồ Xuân Hương là nhà
thơ độc đáo có một không hai trong văn
học sử Việt Nam.
Tài liệu đọc thêm :
Nghĩ về thơ HXH.cuả Gs
Lê Trí Viễn, Ng Đức Quỳnh...
Hồ Xuân Hương toàn tập
giáo sư Ngô Lãng Vân
Nhà Tây Sơn Trần Gia Phụng NxB Non Nước Toronto 2005
Hình trên Internet.