HÙNG VƯƠNG DỰNG NƯỚC, TẠI SAO CÓ KẺ BÁN
NƯỚC?
(Trình
bày tại Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương ngày 17-4-2016 ở Mississauga)
Kính thưa các Bậc trưởng thượng,
Kính thưa Quý vị Quan khách,
Thưa tất cả anh chị em,
Trước hết, chúng tôi xin cảm
ơn Ban Tổ chức đã giao cho chúng tôi trình bày một đề tài về Hùng Vương
nhân Lễ Giổ Tổ năm nay. Đề tài chúng
tôi muốn trình bày là thử tìm hiểu câu hỏi mà nhiều người thường đặt ra là:
Hùng Vương dựng nước, tại sao lại có kẻ bán nước?
Thưa quý vị,
Truyền thuyết Hùng Vương xuất
hiện từ thế kỷ 15 trong bộ Đại Việt
sử ký toàn thư, soạn xong năm 1479, dưới đời vua Lê Thánh Tông (trị vì
1460-1497). Theo bộ sử nầy, các vua
Hùng chia nước thành 15 bộ, đặt tướng văn gọi là Lạc hầu, tướng võ gọi là
Lạc tướng, con trai vua gọi là Quan lang, con gái vua là Mỵ nương, cha
truyền con nối được 18 đời, và tất cả đều gọi là Hùng Vương, nghĩa là không
có đế hiệu riêng từng vị vua. Nếu
tính từ khi Lộc Tục (Kinh Dương
Vương) làm vua năm 2879 TCN đến Hùng Vương thứ 18 chấm dứt năm 258 TCN, có
tất cả 20 đời vua và truyền được 2621 năm, tính trung bình mỗi đời vua trên
130 năm.
Với 18 đời vua trị vì lâu năm
như thế, ngày nay nhiều người không tin rằng chuyện Hùng Vương là sự thật
lịch sử, mà chỉ là truyền thuyết có tính cách thần thoại về nguồn gốc người
Việt. Tuy nhiên, không thể đơn thuần
thẩm định giá trị huyền thoại Hùng Vương bằng khoa học thực nghiệm. Truyền thuyết hay huyền thoại là những
câu chuyện có tính cách tưởng tượng, "được trình bày như thể đã thực sự xảy ra ở một thời đại trước để
giải thích những truyền thống có tính cách vũ trụ luận và siêu nhiên của
một dân tộc, những vị thần linh, những anh hùng, những đặc điểm văn hóa và
tín ngưỡng của họ. Mục đích của
huyền thoại là để giải thích sự sáng tạo con người, loài vật, địa lý, các
hiện tượng tự nhiên, cũng như những nghi lễ trên nền tảng tôn giáo.”
(Maria Leach & Jerome Fried và một nhóm tác giả, Funk & Wagnalls
Standard Dictionary of Folklore, Mythology, and Legend, Harper
SanFrancisco, 1984, tr, 778.)
Các sử gia từ thế kỷ 15 đã
đưa truyền thuyết Hùng Vương lên hàng quốc tổ, khai sáng lịch sử dân tộc,
hẳn đã nhắm nhiều mục đích quan trọng:
Thứ nhứt truyền thuyết Hùng
Vương xác định các sắc dân Đại Việt cùng có một thủy tổ chung, nhằm đoàn
kết các sắc tộc miền đồng bằng và miền núi, một mẹ sinh trăm trứng, nở trăm
con, 50 con lên rừng (các sắc tộc miền núi), 50 con xuống biển (những người
ở đồng bằng).
Thứ hai, truyền thuyết nầy đề
cao đặc tính cộng sinh hài hòa của người Việt. Sống và để người khác cùng sống với mình. Trên địa bàn nước Việt, tất cả các sắc
dân cùng chung sống với nhau một cách hòa bình. Huyền thoại chia 50 con xuống biển, 50 con
lên rừng là đặc tính cộng sinh của người Việt. Dù ở rừng hay ở biển, dù ở đồng bằng hay
núi non, thuộc nhiều bộ tộc khác nhau, theo nhiều tập tục khác nhau, trên
đất Việt mọi người đều là anh em từ cùng một bọc trứng (đồng bào), luôn
luôn cùng sống với nhau một cách hòa thuận trong đại gia đình dân tộc.
Thứ ba và quan trọng nhứt là
truyền thuyết nầy khẳng định truyền thống độc lập bất khuất của người Việt
ngay từ thời lập quốc. Sau một thời
gian bị người Tàu đô hộ, Ngô Quyền đánh đuổi quân Nam Hán năm 938 (mậu
tuất) và xưng vương năm 939 (kỷ hợi), nước ta vĩnh viển độc lập.
Vì vậy, truyền thuyết Hùng
Vương với nền tảng vua Hùng lập quốc, độc lập từ thuở bình minh của lịch
sử, đã kiến tạo niềm tin tinh thần và tâm linh vững mạnh vào truyền thống
cao cả và anh hùng của dân tộc, để mọi người hăng hái hy sinh bảo vệ và xây
dựng đất nước, chống trả tất cả những mưu đồ xâm lăng từ nước ngoài.
Thưa quý vị,
Dân Việt chúng ta tin tưởng rằng
các vua Hùng đã có công dựng nước. Đáng
lẽ tất cả con cháu người Việt chúng ta phải gắng sức theo gương vua Hùng,
cùng nhau xây dựng và bảo vệ đất nước, nhưng thật là bất hạnh cho dân tộc
chúng ta, tại sao lại có một số người phản quốc, âm mưu bán nước cầu vinh,
khiến nhiều lần vận nước long dong, dân chúng khốn đốn. Ai là cái đám người
tệ bạc như thế?
Thưa quý vị,
Việt sử ghi nhận rằng người
đầu tiên cầu viện ngoại bang là Kiểu Công Tiện. Sau khi đảo chánh lật đổ Dương Diên Nghệ năm
938, Kiểu Công Tiện bị Ngô Quyền chống đối.
Kiểu Công Tiện liền cầu viện quân Nam Hán. Nhà Nam Hán sai hoàng tử Hoằng Tháo cầm
quân qua xâm lăng Giao Châu. Hoằng
Tháo bị Ngô Quyền chận đánh tại sông Bạch Đằng, giành độc lập vĩnh viễn cho
nước Việt.
Từ đó, trong các cuộc tranh
chấp nội bộ của triều đình nước Việt, nhiều người đã vì quyền lợi riêng tư,
xin Trung Hoa giúp đỡ. Vua chúa
Trung Hoa chực chờ cơ hội nước Việt chia rẽ, suy yếu để xâm lăng. Có thể kẻ dưới thời nhà Trần có Trần Di
Ái, Trần Ích Tắc; thời nhà Mạc thì Mạc Đăng Dung nhượng 5 động tức 5 làng
miền núi ở châu Vĩnh An thuộc Quảng Yên...
Vua cuối cùng đời nhà Lê Trung hưng là Lê Chiêu Thống cũng bị mang
tiếng vì khi thua nhà Tây Sơn, mẹ của Chiêu Thống sang Tàu cầu viện nhà
Thanh. Quân Thanh tràn vào Đại Việt,
được Chiêu Thống rước vào thành Thăng Long, nhưng bị vua Quang Trung đánh
tan năm 1789. Những nhân vật trên
đây cầu cứu vua chúa Trung Hoa nhằm cứu vãn gia đình đang thất thế, hoàn
toàn vì quyền lợi riêng tư mà thôi.
Đến thế kỷ 20, có một nhân
vật chính trị đã chủ mưu bán nước một cách có tổ chức, có hệ thống, và bài
bản. Người nầy tên thật là Nguyễn
Sinh Cung, đậu tiểu học năm 1907, rồi vào học lớp nhứt niên tức lớp 6
trường Quốc Học Huế. Đang học lớp 6,
Nguyễn Sinh Cung tham dự cuộc biểu tình xin xâu chống thuế của đồng bào, lo
sợ bị Pháp truy nã, liền bỏ trốn, vào Bình Thuận đổi tên là Nguyễn Tất
Thành (NTT), rồi vào Sài Gòn. Tại
Sài Gòn, NTT dùng một tên mới là Văn Ba, xin làm phụ bếp trên tàu Đô Đốc Latouche-Tréville, rời Sài
Gòn ngày 5-6-1911 đi Pháp.
Đến Pháp, NTT viết đơn lên
tổng thống Pháp và bộ trưởng Bộ Thuộc Địa Pháp ngày 15-9-1911, xin vào học
trường Thuộc Địa Paris, nhưng bị từ chối.
Nguyễn Tất Thành tiếp tục đi tàu biển, rồi đến Anh và đến Pháp định
cư. Tại Pháp, NTT gia nhập đảng CS
Pháp cuối năm 1920. Cuối năm 1922,
Thành được đại diện đảng CS Nga kết nạp và đưa qua Nga huấn luyện.
Theo Phan Bội Châu, cũng năm
1920, tại Bắc Kinh, ông muốn nhờ người Nga giúp huấn luyện thanh niên Việt
Nam để về chống Pháp, phục quốc. Người Nga đồng ý với điều kiện là sau khi
học thành tài, người đó phải trung thành với chủ nghĩa CS, về nước phải
tuyên truyền cho chủ nghĩa CS và gánh lấy công việc cách mạng. Vì vậy, PBC tránh không nhờ người
Nga. (Phan Bội Châu niên biểu hay Tự
phán, đăng trong Phan Bội Châu
toàn tập, tập 6, của Chương Thâu, Huế: Nxb. Thuận Hóa, 1990, tr. 272.)
Nay NTT qua Nga học tập năm
1923 chắc chắn cũng phải tuyên thệ trung thành với chủ nghĩa CS và thực
hiện những công việc do đảng CS Nga giao phó. Đây là bước đầu NTT bán linh hồn cho
quỹ. Nga đổi thành Liên Xô năm 1922.
Nuyễn Tất Thành mới học lớp
6, không đủ trình độ văn hóa để học chủ nghĩa Mác-xít, nên NTT chỉ có thể
được CSLX huấn luyện cấp tốc thành một cán bộ tình báo, lãnh lương của
CSLX, rồi gởi qua Á Châu hoạt động cho LX năm 1924. Năm 1930, vâng lệnh đảng CSLX, NTT thành
lập đảng CSVN ngày 6-1-1930 tại Hồng Kông. Về sau đảng CSLX ra lênh phải
đổi tên thành đảng CS Đông Dương và đổi ngày thành lập là 3-2-1930. Như thế, đảng CSVN xuất phát từ nước
ngoài, thành lập theo lệnh của nước ngoài, dựa trên lý thuyết nước ngoài,
được nước ngoài nuôi dưỡng và viện trợ, hoạt động vì quyền lợi của nước
ngoài, thậm chí tên đảng và ngày thành lập đảng cũng theo lệnh của nước
ngoài, chứ hoàn toàn không có tính dân tộc, không có tâm tư tình cảm Việt
Nam. Không có trái tim Việt Nam.
Lúc đầu, NTT hoạt động hoàn
toàn dưới sự lãnh đạo của đảng CSLX.
Đầu thập niên 40, khi đảng CS Trung Hoa mạnh lên, NTT còn được đảng
CSTH giúp đỡ. Quan trọng hơn nữa,
khi đảng CSTH thành công năm 1949, lập rachính thể Cộng Hòa Nhân Dân Trung
Hoa, còn gọi là Trung Cộng (TC), NTT lúc nầy có tên là Hồ Chí Minh (HCM)
qua TC, rồi qua Liên Xô cầu viện
năm1950. Tại Moscow, lúc đó có mặt lãnh
tụ TC là Mao Trạch Đông (MTĐ), lãnh tụ Liên Xô là Stalin uỷ nhiệm cho TC
giúp đỡ CSVN. Thế là từ đây, TC viện
trợ ào ạt mạnh mẻ cho CSVN. Nhờ thế,
CSVN thành công năm 1954. Hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chia hai đất
nước ở vĩ tuyến 17. Cộng sản ơ Bắc
Việt Nam (BVN), Quốc gia ở NamViệt Nam (NVN). Quốc Gia Việt Nam đổi thành Việt Nam Cộng
Hòa (VNCH) năm 1955.
Thưa quý vị,
Sau khi chiếm được nửa phần
đất nước, CSVN vẫn tiếp tục tham vọng thống trị toàn quốc. Muốn tiếp tục chiến tranh, thì phải tiếp
tục vay nợ TC. Muôn vay nợ TC thì
phải trả nợ cũ mới vay nợ mới. Nước
nghèo lấy gì mà trả nợ, CSVN liền dùng tài sản sẵn có là đất đai do tổ tiên
để lại, để trả nợ TC. Đó là lý do
khiến Phạm Văn Đồng (PVĐ), thủ tướng CSVN, vâng lệnh HCM, ký công hàm ngày
14-9-1958, thừa nhận tuyên bố về lãnh hải của TC ngày 4-9-1958. Tuyên bố về lãnh hải của TC gồm 4 điểm,
trong đó có 2 điểm xác định rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc TC. Thế mà PVĐ
thừa nhận điều nầy, có nghĩa là ngay từ 1958, CSVN 9ã bán đứng hai quần đảo
nầy cho TC để đổi lấy võ khí tấn công NVN.
Ngay năm sau tức năm 1959,
PVĐ qua Bắc Kinh xin viện trợ để động binh đánh NVN. Từ đó, TC tiếp tục tăng viện cho
BVN. Liên Xô cũng cạnh tranh với TC,
viện trợ dồi dào cho BVN nhằm lôi kéo BVN về phe mình trong cuộc tranh chấp
với TC.
Bắc Việt Nam mải mê tấn công
NVN, nhất là từ khi Hoa Kỳ thay đổi chiến lược (ngày nay gọi là xoay trục),
bỏ rơi NVN, rút quân về nước, cắt giảm viện trợ cho NVN, ký hiệp định Paris, ngày 27-1-1973, để cho BVN
vẫn đóng quân ơ NVN. Nhân cơ hội
nầy, TC đánh chiếm Hoàng Sa ngày 19-1-1974.
Bắc Việt Nam đồng lõa, làm thinh, không có ý kiến.
Sau khi đánh chiếm toàn bộ
NVN năm 1975, CSVN kiếm cách xù nợ TC, chạy theo Liên Xô, liền bị TC trả
đũa, đánh phá 6 tỉnh biên giới năm 1979.
Năm 1988, TC chiếm nốt Trường Sa.
Năm 1990, khối Đông Âu sụp đổ, CSVN quay lại đầu phục TC tại hội nghị
Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên (Trung Hoa) hai ngày 3 và 4-9-1990 để sống
còn. Từ đó, TC ép CSVN ký các hiệp
ước nhượng ài Nam Quan (1999) và nhượng khoảng 10,000 Km2 diện tích Biển
Đông (2000). Cũng từ đó, CSVN trượt
dài trên đường bán nước, liên tục nhân nhượng TC cho đến ngày nay chỉ để
nhắm mục đích duy nhứt là bảo vệ sự sống còn của đảng CSVN và bảo vệ quyền
lợi của đảng viên CSVN.
Quý vị đã nghe và đã đọc tài
liệu về những nhà tư bản đỏ. Quý vị
cũng đã nghe và đã đọc những câu chuyện về nhà cửa nguy nga “hoành tráng” của
tư bản đỏ. Quý vị cũng đã nghe và đã
đọc những câu chuyện tham nhũng, ăn chơi phung phí của tư bản đỏ, trong khi
dân chúng nghèo đói. Quý vị cũng đã
nghe và đọc nhiều tài liệu CSVN đã bán nước cho Tàu cộng để duy trì quyền lực
và hưởng thụ trên nỗi đau và nỗi nhục của dân tộc Việt Nam.
Kính thưa quý vị,
Hôm nay, chúng ta kỷ niệm và
nhớ ơn vua Hùng dựng nước, xin đừng quên nỗi đau và nỗi nhục đó. Ở hải ngoại, chúng ta được hưởng nền tự
do, dân chủ, đời sống văn minh, thịnh vượng. Xin mọi người hãy nghĩ đến nỗi đau và nổi
nhục mất nước, xin hãy cùng nhau yểm trợ cho Phong trào tranh đấu đòi hỏi
dân chủ ở trong nước, để giải thể kiếm cách chế độ CSVN, mới có ngày đoàn
kết tổng lực dân tộc, tranh đấu đòi đất, đòi biển mà vua Hùng đã để lại cho
chúng ta.
Trân trọng cảm tạ quý vị đã
lắng nghe và kính chào quý vị.
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 17-4-2016)
|