CHÀO MỪNG 2009
KỶ NIỆM
SÁU MƯƠI NĂM QUỐC GIA VIỆT NAM
Bài 3: HIỆP ĐỊNH ÉLYSÉE (8-3-1949)
Trần Gia Phụng
1.
NHỮNG BIẾN
CHUYỂN CHÍNH TRỊ
Trong khi quốc hội Pháp
chưa chuẩn y thỏa ước Hạ Long (5-6-1948), thì chính phủ Robert Schuman xin
từ chức ngày 24-7-1948. Chính
phủ mới, do André Marie nhậm chức ngày 26-7. Ra trước
quốc hội ngày 19-8, Marie tuyên bố ủng hộ
thỏa ước Hạ Long. Dầu vậy
quốc hội Pháp vẫn chưa chịu phê chuẩn
thỏa ước nầy.
Cầm quyền hơn một tháng,
nội các Marie sụp đổ ngày 28-8-1948. Robert Schuman trở
lại làm thủ tướng ngày 31-8, nhưng
được hơn mười ngày, lại phải
từ chức, và Henri Queuille thuộc khuynh hướng xã
hội cấp tiến, lên thay ngày 12-9-1948. [Queuille cầm
quyền đến ngày 27-10-1949.]
Sự thay đổi chính
phủ liên tục bắt nguồn từ những tranh
chấp giữa các đảng phái, làm cho tình hình chính
trị nước Pháp giao động mạnh.
Riêng về vấn đề Đông
Dương, đảng Cộng Sản Pháp đòi chính
phủ Pháp phải nói chuyện với Hồ Chí Minh
chứ không phải Bảo Đại. Đảng R.P.F.
(Rassemblement du peuple français do De Gaulle thành lập ngày 8-4-1947)
thì dứt khoát không muốn tách Nam Kỳ ra khỏi
nước Pháp. Như
thế, tại Pháp bất cứ ai lên làm thủ
tướng đều lúng túng giữa các lập
trường khác biệt lớn lao trên
đây của các phe phái chính trị, khi muốn giải
quyết vấn đề Đông Dương.
Về phía cựu hoàng
Bảo Đại, ông đòi độc lập phải
đi đôi với việc thống nhất lãnh thổ ba
miền đất nước. Cựu hoàng cương quyết giữ vững
lập trường cho đến khi quốc hội Pháp
phê chuẩn thỏa ước Hạ
Long mới chịu về Việt Nam. Trong thời gian
nầy, cựu hoàng bị bệnh gan phải đến Paris điều
trị. Viên cao uỷ Pháp
tại Đông Dương, Émile Bollaert, quá sốt ruột,
nên đến tận khách sạn, nơi cựu hoàng
đang trú ngụ ngày 17-10-1948, nhờ tiếp viên khách
sạn xin gặp. Bảo Đại không muốn tiếp, viện
cớ bị đau để từ chối. Bollaert liền đi
thẳng lên phòng Bảo Đại, gõ cửa và xin vào nói
chuyện, nhưng cũng không thuyết phục
được cựu hoàng.
Giải quyết không được bài
toán Đông Dương, Bollaert không xin tái nhiệm chức
cao uỷ Đông Dương.
Ngày 21-10, chính phủ Pháp cử Léon Pignon sang thay.(Bảo
Đại, sđd, tt.
328-335)
Léon Pignon từng làm cố
vấn cho đô đốc Thierry d'Argenlieu, cao uỷ Pháp
đầu tiên tại Đông Dương sau 1945.
D'Argenlieu trước đây đã
đưa ra chủ trương trở lại với
giải pháp quân chủ. Pignon là người soạn bản dự thảo
Modus Vivendi (Tạm ước 14-9-1946 tại Paris). Trước khi qua
Việt Nam,
Pignon tìm gặp cựu hoàng Bảo Đại để có
thể đạt một thỏa thuận tổng quát, và
mời cựu hoàng về nước. Cựu hoàng từ
chối, đồng thời yêu cầu Pháp thực sự
trả độc lập và thống nhất lãnh thổ.
1 Tới Sài
Gòn, Léon Pignon họp báo ngày 24-11-1948 và tuyên bố: “Giải pháp cho bài toán Việt Nam sẽ
dựa trên tinh thần thỏa
ước Hạ Long.”(Chính
Đạo, sđd. tr. 109.)
Trong lúc các chính giới
ở Paris
cũng như Sài Gòn tìm kiếm một lối thoát chính
trị, thì một yếu tố mới xuất hiện.
Tình hình Trung Hoa biến chuyển một
cách bất lợi cho Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Phe cộng sản do Mao Trạch
Đông lãnh đạo càng ngày càng thắng thế. Tướng cộng
sản là Lâm Bưu mở cuộc tổng phản công và
chiếm Bắc Kinh ngày 1-2-1949. Trước đó, Tưởng
Giới Thạch từ chức tổng thống Trung Hoa Dân
Quốc ngày 21-1-1949, rồi di tản qua Đài Loan ngày hôm
sau. Lý Tôn Nhơn
lên tạm quyền chức vụ nầy.
Tại Hoa Kỳ, Harry Truman tái đắc
cử tổng thống ngày 2-11-1948, nhiệm kỳ 1949-1953. Trước sự
thành công của cộng sản Trung Hoa, Hoa Kỳ tỏ ra
quan ngại đến tình hình Đông Dương. Do đó, tuy trước kia không ủng hộ Bảo Đại,
nhưng ngày 17-1-1949 bộ Ngoại giao Hoa Kỳ gởi công
điện cho đại sứ Pháp tại Washington DC,
khuyến cáo Pháp nên đi đến một thỏa
thuận với Bảo Đại hay bất cứ một
nhóm “quốc gia chân chính” nào
khác.
Báo Le Monde
(Paris) số ngày 3-2-1949 tiết lộ rằng bộ
Ngoại giao Hoa Kỳ đã yêu cầu thủ tướng
Pháp “giải quyết vấn
đề Việt Nam bằng cách thiết lập một
chính phủ quốc gia; và Bảo Đại có vẻ
đủ khả năng chận đứng sự xâm
nhập của chủ thuyết cộng sản vào Đông
Dương”.(Chính Đạo, sđd.
tr. 116.)
2. HIỆP ĐỊNH ÉLYSÉE (8-3-1949)
Do những thay đổi ở Trung Hoa và
nhất là do sự thúc đẩy của Hoa Kỳ,
cuộc thảo luận giữa chính phủ Pháp và Bảo
Đại được khai thông nhanh chóng.
Ngày 12-2-1949, một Hội
đồng hỗn hợp Pháp Việt được thành
lập. Về phía Pháp có
Herzog (trưởng đoàn), Marolles, De Pereya, De Raymond,
Risterruci, thiếu tá Ploix, và sau thêm năm chuyên viên tài chánh,
kinh tế, kế hoạch, văn hóa, quân sự. Về phía Việt Nam có Bửu
Lộc (trưởng đoàn), Nguyễn Đắc Khê, Phan
Huy Đán, Phạm Văn Bính, Trương Công Cừu,
Nguyễn Quốc Định, Đinh Xuân Quảng,
Nguyễn Mạnh Đôn, và Trần Văn Hữu
(đại diện cho Nguyễn Văn Xuân). Hội đồng
hỗn hợp làm việc đến ngày 28-2-1949 thì kết
thúc.
Sau khi lãnh đạo hai phía xem xét lại các
kết quả, ngày 8-3-1949, cựu hoàng Bảo Đại
đến điện Élysée, nơi đặt văn phòng
tổng thống Pháp ở thủ đô Paris, ký kết
hiệp định với tổng thống Pháp là Vincent
Auriol Vì vậy hiệp
định nầy thường được gọi là
hiệp định Élysée,
gồm có ba văn kiện:
1)
Văn thư của tổng thống Cộng Hòa Pháp,
Chủ tịch Liên Hiệp Pháp,(1)
gởi hoàng đế Bảo Đại, nói về các
vấn đề thống nhất, ngoại giao, nội
chính, tư pháp, văn hóa, quân sự, kinh tế, tài chánh
của nước Việt Nam trong Liên Hiệp Pháp.
2)
Văn thư của hoàng đế Bảo Đại
gởi tổng thống Cộng Hòa Pháp, Chủ tịch Liên
Hiệp Pháp, xác nhận đã tiếp nhận và
đồng ý về nội dung của văn thư trên.
3)
Văn thư của tổng
thống Cộng Hòa Pháp gởi hoàng đế Bảo
Đại bổ túc thêm, theo lời yêu cầu của
Bảo Đại, các điểm liên hệ đến
vấn đề thống nhất của Việt Nam và
vấn đề ngoại giao, nhất là việc trao đổi
đại sứ.
Trong cả ba văn
kiện trên, người Pháp gọi quốc hiệu
Việt Nam
như dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim.
Người Pháp gọi cựu hoàng
Bảo Đại là hoàng đế, thật sự chỉ
có tính cách tượng trưng.
Người Pháp cần
một giải pháp chính trị để giải quyết
tình hình Việt Nam.
Pháp buộc lòng phải ký hiệp
định Élysée, nhưng
không lẽ tổng thống Pháp kiêm chủ tịch Liên
Hiệp Pháp, lại ký kết văn bản với một
người không có chức vụ tương xứng? Do đó, Pháp mới trở
lại danh xưng “hoàng đế”, để
giữ thế cân đối chính trị giữa hai bên
trước mặt quốc tế.
Với hiệp định
Élysée, chính phủ Pháp chính
thức giải kết hiệp ước bảo hộ
1884. Hiệp ước bảo hộ
năm 1884 hết sức bất bình đẳng, đã
được ký kết ngày 6-6-1884, dưới triều
vua Kiến Phúc (trị vì 1883-1884).
Tuy nhiên, hiệp ước 1884 chỉ đề
cập đến vùng lãnh thổ từ tỉnh Bình
Thuận trở ra Bắc, tức là Trung và Bắc Kỳ mà
thôi. Còn Nam Kỳ là đất
đã được nhượng đứt cho Pháp từ
năm 1874, dưới triều vua Tự Đức
(trị vì 1848-1883), nên vẫn còn được xem là lãnh thổ
của Pháp. Cuộc thương
thuyết về Nam Kỳ tiếp tục thêm một
thời gian, để đưa đến việc tái
thống nhất hoàn toàn đất nước Việt Nam
Về hiệp định Élysée, có hai điểm cần chú ý: Thứ nhất, khi hai nước
ký kết hiệp ước với nhau, thông thường
là đại sứ hoặc ngoại trưởng
đại diện hai nước ký kết hiệp
ước. Đàng nầy, đích thân
tổng thống Pháp đứng ra ký kết. Lúc đó, ông Vincent Auriol ký kết
hiệp định với hai tư cách pháp nhân: vừa là
tổng thống Pháp, vừa là chủ tịch Liên Hiệp
Pháp.
Thứ hai, sau khi hiệp
định Élysée
được ký kết, Việt Nam không còn là thuộc
địa của Pháp, mà trở thành một nước
độc lập trong Liên Hiệp Pháp (LHP).
Một chế độ mới
được thành lập.
Đó là chế độ Quốc Gia Việt Nam. Lúc đó, quân đội Pháp
hiện diện ở Việt Nam không phải với tư
cách quân đội Pháp, mà với tư cách là quân đội
Liên Hiệp Pháp, giúp bảo vệ độc lập
của Quốc Gia Việt Nam, một quốc gia thành viên
trong LHP.
3. PHẢN ĐỐI CỦA
CỘNG SẢN VÀ THỰC DÂN
Phản đối mạnh mẽ
trước việc ký kết hiệp định Élysée
giữa Vincent Auriol và Bảo Đại, Hồ Chí Minh
trả lời như sau trong cuộc phỏng vấn ngày
3-4-1949 của Dân Quốc Nhật Báo [một báo của Trung
Hoa lúc đó]: “...Đó chỉ
là một tờ giấy lộn.
Thứ thống nhất và độc lập giả
hiệu ấy chẳng lừa bịp được ai...Vĩnh
Thụy cam tâm bán nước, đó là sự thực...”(2)
Hồ Chí Minh kết án Bảo Đại bán nước khi ký
hiệp định Élysée. Nhớ lại điều 1
thỏa ước Sơ
bộ ngày 6-3-1946 giữa Hồ Chí Minh và Sainteny, nói
rằng Pháp thừa nhận Việt Nam là một quốc
gia tự do (état libre) trong Liên Bang Đông Dương và trong
Liên Hiệp Pháp. Hiệp
định Élysée cũng
thừa nhận Việt Nam độc lập trong
Liên Hiệp Pháp. Tuy nhiên,
theo điều 2 của thỏa ước Sơ bộ, Việt Nam sẵn sàng tiếp đón
quân đội Pháp đến thay thế quân đội
Trung Hoa để giải giáp quân đội Nhật,
nghĩa là Hồ Chí Minh chính thức đồng ý việc
Pháp trở lại Việt Nam.
Trong khi đó, qua hiệp định Élysée, Bảo Đại tranh
đấu để đem lại độc lập và
thống nhất cho đất nước. Hồ Chí Minh còn ký Tạm ước (14-9-1946)
để nhượng bộ Pháp. Vậy
việc ký kết các hiệp ước với Pháp giữa
hai người, Hồ Chí Minh và Bảo Đại, ai là
kẻ thực sự bán nước?
Hiệp định Élysée bị các dân biểu
cộng sản Pháp và các dân biểu thuộc đảng De
Gaulle phản đối. Các
dân biểu cộng sản lập đi lập lại
một điệp khúc duy nhất là chỉ muốn chính
phủ Pháp thương lượng với Hồ Chí Minh. Các dân biểu thuộc
đảng De Gaulle muốn giữ thuộc địa Nam Việt lại
cho nước Pháp và không bằng lòng về sự thống
nhất Việt Nam. Các dân biểu nầy viện
dẫn một điều luật trong Hiến pháp ngày
27-10-1946 của nền Đệ tứ Cộng hòa Pháp, theo đó “không
một ai có thể phạm vào sự sứt mẻ của
lãnh thổ được.”(Bảo
Đại, sđd. tr. 344.)
Ngược lại,
cựu hoàng Bảo Đại cương quyết đòi
hỏi Pháp phải trả Nam Việt.
Dầu hiệp định Élysée
đã được ký kết, nhưng Pháp chưa trả
Nam Việt về lại cho Việt Nam, thì
cựu hoàng cũng chưa chịu lên đường về
nước. (Còn tiếp)
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto,
01-01-2009)
CHÚ THÍCH
1.
Liên
Hiệp Pháp (Union française):
Được thành lập theo
Hiến pháp ngày 27-10-1946 của Đệ tứ Cộng hòa
Pháp, mô phỏng theo tổ chức Liên Hiệp Anh (British Commonwealth) để thay thế
hệ thống đế quốc Pháp. Liên Hiệp Pháp gồm
nước Pháp, các thuộc địa cũ, các
nước bảo hộ của Pháp. Liên Hiệp Pháp
chấm dứt năm 1958.
2.
Hồ Chí Minh toàn tập [tập] 5, xuất bản
lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia,
2000, 1050.