TẠ
ƠN THẦY CÔ
( Đaị Hội PCT/July/1st/2012, 60 Năm thành lập
Trường)
Học trò xứ Quảng nổi tiếng thông
minh. Tri thông minh này biểu lộ rất rõ rệt trên
lãnh vực văn chương. Đa số
nhà văn, nhà thơ Việt Nam xuất thân từ Quảng
Nam. Giỏi văn tức là yêu tiếng
Việt. “Yêu tiếng nước tôi” thăng hoa thành
lòng yêu nước . Lịch sử Việt
Nam là lịch sử của những sát phạt đẫm
máu và bất tận do thực dân quốc tế,đặc biệt là thực dân Tàu, chủ
mưu. Thêm vào đó Quảng Nam là quê hương của
“Chó ăn đá, gà ăn muối”. Đào
tìm cơm áo cho bản thân và cho gia đình là cả một vấn
nạn lớn lao và dài thăm thẳm. Vấn
nạn vừa kể đi kèm với những phiền muộn
xoáy tim óc trước thân phận ảm
đạm của Việt Nam trên dòng sử đã làm cho
người học trò Quảng Nam không hài lòng đối với
bất kỳ loại hiện tại nào. Đó
là tâm lý bất mãn hiện sinh. Biến
thái của bất mãn hiện sinh là tính thích hài hước
và ưa quậy phá.
Nói một cách chung nhất, tánh khí của
người học sinh Quảng Nam có thể được
diễn tả bằng bài toán cộng như sau:
Tính thích hài hước, ưa quậy phá + Tư
chất thông minh + lòng yêu nước thiết tha + tâm lý bất
mãn hiện sinh.
Với tính khí đặc biệt như vừa
kể, học trò Quảng Nam khi bước chân vào ngưỡng
cửa trường Trung Học Phan Châu Trinh phải qua một
cuộc thi tuyển nhiều chông gai. Sau
đó, phải khép mình trong khuôn khổ kỷ luật nghiêm
minh của nhà trường. Cuộc chung sống này chẳng
khác nào cuộc hội ngộ giữa nắng hè hực nóng
với băng giá của mùa đông tê cóng .
Từ đó, đời sống của
người học sinh Phan Châu Trinh không thể không đối
diện với vô vàn “lúng túng”. Lúng túng
không có nghĩa là bối rối khi không thể tìm ra đáp
số cho một trở ngại trong đời sống.
Lúng túng ở đây là tình huống con người phải
chìm nổi, phải điêu đứng giữa thắng và
bại, giữa tin yêu và nghi ngờ, giữa cao vọng và
tuyệt vọng, giữa hài lòng và bất mãn… Cao Bá Quát cho rằng
đời sống của một người càng nhiều
“lúng túng”, người đó càng có cơ hội trở thành
“nhân vật lớn”. Chính vì vậy, trong bài thơ “Bất
Ngộ Thời”, Cao Bá Quát đã hạ bút viết rằng:
“Ngất ngưởng thay Con Tạo khéo cơ cầu,
Muốn đại thụ hãy dìm cho lúng túng” (Thơ Cao Bá
Quát)
Nhờ vào đâu học sinh Phan Châu Trinh đã vượt
thoát được những tình huống lúng túng như vừa
mô tả? Câu trả lời sẽ tìm thấy
khi chúng ta hướng mắt nhìn về phía Thầy giáo và
Cô giáo Phan Châu Trinh. Thực vậy, ngoài những giờ
dạy chuyên môn về khoa học toán, khoa học thực
nghiệm và khoa học nhân văn, Thầy và Cô giáo Phan Châu
Trinh đã thường xuyên tĩnh táo và kịp thời
trong việc ứng xử với đám học trò bất
mãn hiện sinh mỗi khi kỷ luật của nhà trường
bị vi phạm. Những ứng xử kia
là: khi lạnh lùng xa cách, khi thân thiết kề cận; Khi
nghiêm khắc trừng phạt, khi nồng nhiệt ban
thưởng. Điều cần nhấn mạnh ở
đây là các ứng xử tuy có khác nhau về hình thức, về
mức độ nặng nhẹ, nhưng trong cốt lõi của
mỗi ứng xử bao giờ cũng là sự ẩn chứa
một cách rõ nét lòng yêu thương rộng lượng của
Thầy và Cô giáo đối với hoc trò. Chính lòng yêu
thương này đã hối thúc Thầy và Cô giáo, ngoài những
giờ dạy các môn học chuyên khoa, đã dùng ngôn ngữ,
cử chỉ hoặc chính đời sống của mình
để trao truyền cho học trò hai lời giáo huấn
căn bản:
Lời giáo huấn một: Đà Nẵng là thương cảng
lớn của Việt Nam. Đà Nẵng là
điểm hội tụ của dân thập phương
thuộc nhiều thành phần xã hôi khác nhau. Họ kéo về Đà Nẵng nhằm tìm
phương tiện sinh sống. Đặc tính của
người Đà Nẵng là hoà đồng với người
của muôn phương để chung sống
trong thương yêu và phát triển. Đó là
Đà-Nẵng-tính.
Lời giáo huấn hai: một trong những điểm nổi
bật trong tư tưởng Phan Châu Trinh là thái độ
nhìn nhận mọi dị biệt giữa người dân với
người dân về vũ trụ quan, nhân sinh quan và xã hội
quan. Có nhìn nhận như vậy , Việt
Nam mới có cơ hội vươn mình lên thành một xã hội
đoàn kết, văn minh, dân chủ và thịnh vượng.
Tình bạn giữa Phan Châu Trinh và Phan Bội
Châu là sự minh chứng rằng người ta có thể bất
đồng nhưng không bất hoà. Đó
là cốt lõi của Phan-Châu-Trinh-tính.
Nhờ vào công trình giáo dục phối hợp
nhịp nhàng giữa nghiêm minh trong trí dục và dịu dàng
trong đức dục Thầy và Cô giáo Phan Châu Trinh qua nhiều
niên khoá đã cống hiến cho xã hội Việt Nam những
công dân hữu ích. Đây là những con người
thành công trong xã hội, thông minh, yêu nước, chống bất
công bằng tất cả tâm tình tha thiết của những
người đã thực sự chìm nổi trong dòng sử
Việt.
Trong phạm vi hạn hẹp
của bài viết “Tạ Ơn Thầy Cô”, những
điều trình bày ở trên chỉ nói lên được
phần nào công ơn trời biển của Thầy và
của Cô giáo trường Trung Học Phan Châu Trinh Đà
Nẵng.
Nói tới công ơn tức là nói tới tình và nghĩa. Tình là thất tình. Trong thực
tế khi nói tới chữ “Tình”, người ta
thường nghĩ đến tình thương yêu.
Khi hai hay nhiều người có tình với nhau, họ
phải biểu lộ chữ tình kia
bằng một số việc làm, đó là nghĩa. Tình là
tư tưởng, nghĩa là hành động thể
hiện tư tưởng . Tình và
nghĩa như hai mặt không thể tách rời của
một bàn tay. Có khi tình
tạo ra nghĩa. Có khi nghĩa tạo
ra tình. Sau đó tình và nghĩa nắm tay
nhau, cất cánh bay cao.
Do lòng thương mến tuổi trẻ, Thầy giáo và Cô
giáo tận tụy dẫn dắt học trò mở mang trí
tuệ và thăng tiến đạo đức. Đó là tình và nghĩa của Thầy dành cho Trò.
Đáp lại, học trò biết ơn và thương kính
Thầy Cô, Trò học hành chăm chỉ, mẫn cán làm
những công việc để Thầy Cô vui lòng. Đó là tình và nghĩa của trò đối
với Thầy. Cứ như thế,
tình nghĩa Thầy Trò quấn quyện vào nhau, cùng nhau
thăng hoa.
Thầy Trần Đại Tăng là một
ông Thầy rất nghiêm khắc trong giờ dạy toán.
Thế nhưng, khi Thầy và Trò đã biền biệt xa
cách, nhà thơ Trần Hoan Trinh đã nhẹ nhàng viết ra
những thương mến đậm đà:
“Rồi các em bỏ đi về tám hướng
Một mình thầy đứng lại giữa sân
trường
Hồn no đầy mới lạ của trăm
phương
Có bao giờ lòng quay về chốn cũ?”
(Chiều một mình sân trường – Thơ Trần Hoan
Trinh)
“Có bao giờ lòng quay về chốn cũ” ư ?Thưa
rằng trong thâm tâm của mỗi học sinh PCT, công ơn
của Thầy, của Cô bao giờ cũng là điểm
nhớ mà lòng vẫn thường xuyên quay về. Sau khi ra trường, trò có thể đã là một
người công danh hiển đạt. Thế
nhưng mỗi lần gặp mặt Thầy Cô, mặc
dầu cả Thầy lẫn Trò tóc muối nhiều hơn
tóc tiêu, trò vẫn một mực trình diện Thầy Cô
bằng tất cả tấm lòng tôn kính và mến
thương:
“ Thưa Thầy em là cựu học sinh PCT một dạo
Tóc dẫu pha sương, một chữ ơn Thầy”
(Về Đà Nẵng Đọc Thơ Trần Hoan Trinh.
Thơ Võ Ý)
Câu chuyện đối đáp văn thơ giữa
Thầy Trần Hoan Trinh và trò Võ Ý chỉ là một tình
huống trong muôn ngàn tình huống cho thấy tình Thầy Trò
PCT là loại tình cảm đặc biệt keo sơn.
Trong keo sơn kia, Thầy và Trò PCT còn nhìn ra sự thể
rằng: người Việt Nam hậu bán thế Kỷ 20
là lớp người sống lưu lạc triền miên:
lưu lạc từ Bắc vào Nam: 1954, lưu lạc trên
lãnh thổ miền Nam Việt Nam do những tai ương
của chiến tranh và sau cùng là một lưu lạc
thảm sầu làm cả quốc tế phải rung
động, đó là cuộc lưu lạc trên toàn thế
giới sau biến cố 30/04/1975. Ngày nay có
những người đã phải sống ở ngoại
quốc lâu dài hơn năm tháng được sống trên
lãnh thổ Việt Nam. Trong cảnh đời lưu
lạc nghiệt ngã mà chúng ta đang trôi nổi, hai chữ
quê hương bất ngờ trở thành một dấu
hỏi lớn: Quê hương là Huế, Saigon, Hà Nội
ư? Quê hương là Paris, Hoa Thịnh
Đốn, Luân Đôn ư? Hay quê hương chỉ
là một chùm khế ngọt? Thưa không phải như
vậy! QUÊ HƯƠNG LÀ NƠI MÀ TÌNH CẢM
VÀ TƯ TƯỞNG CỦA MỘT NGƯỜI
ĐƯỢC VƯƠN LÊN VÀ ĐƯỢC ĐỊNH
HÌNH. Căn cứ vào suy nghĩ vừa kể, bạn
học trường Trung Học ở đâu, nơi đó
chính là Quê Hương của bạn. Quê hương của
chúng ta rõ ràng là trường Trung Học PCT/ĐN. Linh hồn của nhà trường chắc
chắn phải là hình ảnh của các thầy Hiệu
Trưởng, các Thầy giáo và các Cô Giáo. Như vậy tình Thầy Trò PCT hàm chứa cả
tình yêu quê hương của lớp người lưu
lạc. Tình Thầy Trò là tình riêng, tình yêu Quê
Hương là tình chung. Tại mái
trường PCT: tình riêng và tình chung
đã được nhập làm một. Trong trạng thái
nhập làm một vừa kể, tình Thầy Trò PCT trở
thành những đoá hoa tuyệt tươi thơm
và tuyệt lộng lẫy.
Đỗ Thái Nhiên