TỔNG KẾT CUỘC
CHIẾN TẾT MẬU THÂN (1968)
Trần
Gia Phụng
1.- THIỆT HẠI VỀ NHÂN MẠNG
VÀ TÀI SẢN
Theo thống kê của Bộ Tổng tham mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
(VNCH), cho đến cuối tháng 3-1968, tổng số tử vong trên toàn lãnh thổ VNCH
của các bên lâm chiến trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân (1968) của cộng
sản (CS) là:
VNCH : 4,954 sĩ quan và binh sĩ , 14,300 thường dân. (Trong số
thường dân nầy, Huế mất
khoảng
trên 2,000 người.)
Cộng sản 58,373 sĩ
quan và binh sĩ .
Hoa Kỳ: 3,895 sĩ
quan, binh sĩ và nhân viên Hoa Kỳ (gồm
tất cả quân binh chủng).
Đồng minh: 214 sĩ quan và nhân viên Đại Hàn, Úc, Tân
Tây Lan và Thái Lan trong các phái
bộ viện
trợ quân sự tại VNCH.(Phạm Văn Sơn, sđd.
tr. 35.)
Số 14,300 thường dân tử nạn là những người đã được khai báo, kiểm
kê, trong khi đó còn rất nhiều người mất tích, chết không được khai báo, kiểm
kê, nhất là những người ở thôn quê, trong những vùng do cả hai bên (VNCH và
CS) kiểm soát.
Trong cuộc tổng tấn công của CS nhân dịp Tết Mậu Thân, tổng số thiệt
hại về nhà cửa ở các thành phố ước lượng khoảng 4,5 tỷ đồng VNCH (lúc bấy
giờ) theo đó: 84,983 nhà bị hư hại từ 50 đến 100%, 30,343 nhà thiệt hại tới
50%. Riêng tại Sài Gòn, 18, 507 nhà
bị thiệt hại từ 50% đến 100%. (PTGDVNHN, sđd. tr. 222. Sách nầy trích số liệu trên đây từ sách The Vietcong Massacre at Hue của bác
sĩ Elje Vannema, New York: Nxb. Vintage Press, 1976.)
Theo Trung tâm Khuếch trương Kỹ nghệ, sự thiệt hại trong khu vực kỹ
nghệ lên tới 4,541,800,000 đồng đối với 84 cơ xưởng. Riêng ngành dệt, thiệt hại 2,985,400,000
đồng. (Đoàn Thêm, 1968 Việc từng ngày, sđd. tr. 129.)
2.- QUÂN SỰ
Cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân, khác với chiến tranh du kích, là
sự đối đầu trực tiếp công khai giữa quân lực VNCH và lực lượng CS trong đó
có bộ đội chính quy Bắc Việt Nam và MTDTGP.
Cuộc tổng tấn công của CS thật sự đã đạt được yếu tố bất ngờ khá
cao. (James J. Wirtz, sđd. tr. 28.)
Dầu tổng tấn công bất ngờ, CS hoàn toàn thất bại, không chiếm được
các thành phố như chủ trương ban đầu của CS. Nhiều nơi, CSVN phải rút về mật khu, bưng
biền, rừng núi, hay tránh sang biên giới Lào và Cao Miên.
Tài liệu CSVN sau nầy công khai xác nhận sự thất bại nặng nề của họ.
“Cuối tháng 9 [1968], hoạt động quân sự của ta [CSVN] đã ngừng lại. Sau một thời gian dài liên
tục tấn công vào đô thị - chỗ mạnh của địch trong điều kiện chúng đã bố
phòng, lực lượng ta bị tiêu hao, bổ sung không kịp, tiếp tế khó khăn, phải
rút về củng cố...” “Lực lượng vũ trang bị tiêu hao không được
bổ sung. Tiếp tế lương thực rất khó
khăn. Ở Tây nguyên, toàn bộ số gạo
còn lại của năm 1968 chỉ còn phần ba so với số lượng tồn kho năm 1967. Dự trữ lương thực đến giữa năm 1969 chỉ đủ
nuôi bộ đội ta trong khoảng một tuần...” (Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ -
Kissinger tại Paris, tr. 35 và tr. 57. Lưu Văn Lợi là nhân viên phái
đoàn BVN tại hội nghị Paris, sách viết ở trong nước. Bản in đưa bán ra nước
ngoài, không đề nơi và năm xuất bản.)
Quân lực VNCH tuy lúc đầu bất ngờ, nhưng nhờ khả năng phản ứng
nhanh lẹ, nên đã mạnh mẽ chận đứng được những đợt tấn công của CS khắp nước,
gây thiệt hại lớn lao cho CS. Con số
58,373 cán binh CS tử thương có thể còn thấp so với số thực sự CSVN mất
mát.
Sau vụ Tết Mậu Thân, khi được tổng thống Hoa Kỳ gởi sang thị sát
chiến trường Việt Nam ngày 23-2-1968, tướng Earle G. Wheeler, trong báo cáo
gởi về Washington D.C., đã nhấn mạnh: “Các
lực lượng võ trang Việt Nam Cộng Hòa đã kháng cự cuộc tấn công ban đầu với
một sức mạnh thần kỳ.” (Tường
trình của tướng Earle G. Wheeler được tướng Yves Gras (người Pháp) trích dẫn
trong bài "L'autre armée Vietnamienne, L'engagement des Vietnamiens
dans la guerre d'Indochine (1945-1975)", đăng trong sách Indochine: Alerte à l'histoire của một
nhóm tác giả, Académie des Sciences d'Outre-Mer [Viện Hàn Lâm Khoa Học Hải
Ngoại], Institut de l'Asie du sud-est [Viện Nghiên Cứu Đông Nam Á] và
Association nationale des anciens d'Indochine [Hiệp Hội Quốc Gia Cựu Chiến
Binh Đông Dương] đồng xuất bản, Paris, 1985, tr. 279.)
Khi bình luận về trận Mậu Thân, ông Yves Gras, một tướng lãnh
Pháp, cũng đã viết: “Quân đội Nam Việt giữ vai trò chủ yếu
trong các trận đánh bẻ gãy cuộc tấn công của phương Bắc trong Tết Mậu Thân
vào tháng 2 năm 1968." (Yves Gras, bài đã dẫn.)
Phía CS cũng rất bất ngờ về sức chiến đấu bền bĩ của quân lực
VNCH. (Leo J. Daugherty, Gregory
Louis Mattson, NAM, a Photographic
History, New York: MetroBooks, 2001, tr. 314.) Một viên tướng CS tham gia trong cuộc tổng
tấn công Tết Mậu Thân đã thú nhận: “Nhưng
mặt khác, trong Tết Mậu Thân, ta không đánh giá đúng về tương quan lực lượng
ta địch cụ thể lúc ấy, không thấy hết khả năng còn lớn của địch và điều kiện
còn hạn chế của ta, đề ra yêu cầu quá cao sức thực tế ta có...” (Trần Văn Trà, Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm, TpHCM: Nxb. Văn Nghệ Thành Phố,
1982, tr. 57.)
Một điều tàn ác là sau khi CS rút lui, dân chúng phát hiện nhiều
xác binh sĩ CS bị cột vào các ổ súng phòng không bằng xích sắt, đặt trên
hoàng thành bao chung quanh thành nội Huế, nghĩa là binh sĩ CS không thể trốn
chạy được, mà phải chiến đấu tại chỗ cho đến chết. (Nhiều người viết, Technology and the Air Force: A Retrospective Assessement,
Washington D.C: Air Force History and Museums Program, United States Air
Force, 1997, tr. 129.)
3.- CHÍNH TRỊ
Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân của CS vào các thành phố VNCH tạo
ra những phản ứng khác nhau tại Việt Nam và Hoa Kỳ.
Cộng sản vi phạm quyết định hưu chiến, mở cuộc tổng tấn công trong
dịp Tết thiêng liêng trên toàn cõi miền NVN, tàn sát dân chúng vô tội làm
cho dân chúng kinh sợ. Chẳng những
dân chúng không hưởng ứng lời kêu gọi tổng khởi nghĩa của CSVN, mà dân
chúng còn trốn tránh vùng CS tạm chiếm, bỏ chạy về phía quân đội VNCH và
quân đội Mỹ. Uy tín của quân đội
VNCH và chính phủ VNCH lên cao trong lòng dân chúng Việt Nam.
Ở ngoài nước, cuộc tổng tấn công bất ngờ Tết Mậu Thân (1968) của
CS đã gây một tiếng vang lớn trên thế giới, tạo một đòn tâm lý khá nặng
đánh vào dân chúng Hoa Kỳ. Việc quân
đội CS đột kích vào các thành phố NVN khiến cho dân chúng Hoa Kỳ, ở xa Việt
Nam nửa vòng trái đất, nghĩ rằng tình hình quân sự VNCH quá xấu, nên họ lo
ngại về số phận của thân nhân trong quân đội Hoa Kỳ đang chiến đấu tại Việt
Nam.
Đó là cơ hội tốt cho phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ hoạt động mạnh. Những gia đình có thân nhân thuộc thành
phần động viên, tham gia tích cực các cuộc biểu tình, vận động rút quân đội
Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam. Phong trào
phản chiến Hoa Kỳ luôn luôn khuếch đại và bôi đen những hoạt động của quân
đội Đồng minh và VNCH.
Ví dụ tấm hình đại tá Nguyễn Ngọc Loan, tổng giám đốc Cảnh sát Quốc
gia xử tử tại chỗ ngày 1-2-1968 một cán binh CS trên đường Sư Vạn Hạnh Sài
Gòn, gần chùa Ấn Quang. Đại tá Loan
nổi giận vì nguyên cả gia đình của một sĩ quan Cảnh sát, thuộc quyền của
ông, ngay trước đó đã bị cán binh nầy giết chết. (Leo J. Daugherty, Gregory
Louis Mattson, NAM … sđd. tr. 266.)
Tấm hình nầy do Eddie Adams chụp.
Do tấm hình nầy, Eddie Adams được giải Pulitzer về báo chí ở Hoa Kỳ
năm 1969. Tấm hình nầy gây những ảnh
hưởng bất lợi về chính trị cho VNCH.
Cộng sản và phản chiến Hoa Kỳ lợi dụng tấm hình nầy để tuyên truyền
đòi Hoa Kỳ rút quân.
Về sau, tác giả tấm hình, Eddie Adams đã viết trên tuần báo Time, số Chủ nhật 24-6-2001 như sau: “Bức ảnh này đã thực sự làm xáo trộn đời ông [Nguyễn Ngọc Loan]. Ông không bao giờ trách cứ tôi.
Ông nói nếu tôi không chụp tấm hình này, thì người khác cũng sẽ chụp, nhưng tôi cảm
thấy áy náy với ông và với gia đình ông trong một thời gian dài. Tôi vẫn giữ
liên lạc với ông. Lần cuối cùng chúng tôi nói chuyện với nhau cách đây khoảng sáu tháng,
khi ông rất yếu. Khi được tin ông mất,
tôi gửi hoa phúng điếu và đã viết, "Tôi xin lỗi. Có những giọt
nước mắt trong mắt tôi.[Tôi đang khóc ông.]"
Trong khi đó, phong trào phản chiến Hoa Kỳ cố tình bỏ qua những cuộc
khủng bố và tàn sát của CSVN, nhứt là vụ tùng xẻo dã man và chôn sống người
tại Huế trong Tết Mậu Thân. Một ký
giả Đức có mặt tại Huế, chứng kiến cảnh một toán phóng viên truyền hình Mỹ
thờ ơ nhìn các mồ chôn tập thể. Khi
có người hỏi tại sao không quay cảnh các mồ tập thể nầy thì một phóng viên
Mỹ trả lời: “Chúng tôi đến đây không
phải để quay phim tuyên truyền chống cộng.” (UweSiemon-Netto, Đức - A repoter’s love for a wounded
people, California: 2013, tr. 252.)
Khi rút lui, quân CS đã đưa đi theo một số nhân vật tên tuổi như
thượïng tọa Thích Đôn Hậu (chùa Từ Đàm, Huế), các ông Lâm Văn Tết, Trịnh
Đình Thảo (Sài Gòn) ...
4.- NHỮNG THAY ĐỔI QUAN TRỌNG
Để tăng cường sức mạnh quân sự, tướng Westmoreland xin chính phủ Mỹ
tăng viện khẩn cấp một trung đoàn TQLC và một lữ đoàn Nhảy dù thuộc sư đoàn
82. Ngày 13-2-1968, bộ Quốc phòng Mỹ
chấp thuận tăng 10,500 quân. (John S. Bowman, sđd. tr.20.)
Mười ngày sau, khi đại tướng tham mưu trưởng Liên quân Earle
Wheeler đến Việt Nam, ngày 23-2-1968, đại tướng Wesmoreland đưa ra đề nghị
tăng thêm 206,000 quân đến Việt Nam, nhưng đề nghị nầy không được chấp thuận. (Stanley
Karnow, Vietnam, a History,
New York: The Viking Press, 1983, tr. 551.)
Cũng trong ngày 23-2-2968, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh thay hai tư lệnh quân đoàn cùng một
lúc. Thiếu tướng Lữ Lan thay thiếu
tướng Vĩnh Lộc làm tư lệnh Quân đoàn II, và thiếu tướng Nguyễn Đức Thắng
thay thiếu tướng Nguyễn Văn Mạnh giữ chức tư lệnh Quân đoàn IV.
Ngày 27-2-1968, tướng Edward Lansdale (trở lại Việt Nam làm việc tại
Tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn từ 1965), đề nghị với đại sứ Mỹ là Bunker giúp củng
cố quyền lực tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, nhằm chấm dứt tình trạng lưỡng đầu
trong chế độ VNCH, tức bắt đầu giảm quyền của phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ.
(Chính Đạo, Mậu Thân..., tr.
348.)
Trong tháng 2-1968, chính quyền VNCH ra lệnh “bảo vệ an ninh”, một
hình thức giam lỏng, một số nhân vật chính trị, như thượng tọa Thích Trí
Quang, đại đức Thích Hộ Giác, đại đức Thích Liễu Minh, luật sư Trương Đình
Du, Âu Trường Thanh, Trần Thúc Linh, Hồ Thông Minh (mới từ Pháp về), nhằm
tránh bị CS lợi dụng, theo giải thích của chính quyền. Ngày 11-4-1968, Hồ Thông Minh và Trương
Đình Du được thả ra. Hồ Thông Minh bị
trục xuất về Pháp, còn Trương Đình Du bị bắt lại ngày 1-5-1968. Việc “bảo vệ
an ninh” cho các tu sĩ chấm dứt ngày 30-6-1968. (Đoàn Thêm, 1968 Việc từng ngày, sđd. tr. 226.)
Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ, Robert McNamara, từ chức từ ngày
29-11-1967, nhưng sau biến cố Tết Mậu Thân mới rời chức vụ ngày 29-2-1968,
và được Clark Clifford thay thế. (Clifford làm việc đến khi tân tổng thống
Richard Nixon nhận chức 20-1-1969.)
Trong cuộc họp báo ngày 22-3-1968, tổng thống Johnson tuyên bố hai
sự thay đổi quan trọng: 1) Sẽ đưa đại
tướng Westmoreland lên làm tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ từ ngày 2-7-1968
và đại tướng Creighton W. Abrams sẽ thay thế Westmoreland tại Việt
Nam. 2) Đô đốc Ulysse Grant Sharp,
tư lệnh lực lượng Mỹ ở Thái Bình Dương sẽ giải ngũ trong tháng 7-1968 và đô
đốc John McCain, Jr. sẽ lên thay. (Đoàn Thêm, sđd. tr. 103.)
Về phía CS, do MTDTGP thiệt hại nặng nề trong cuộc tổng tấn
công. Lãnh đạo đảng LĐ ở Hà Nội nhân
cơ hội nầy, đưa cán bộ và bộ đội từ BVN vào NVN điền thế, củng cố và điều
khiển chặt chẽ MTDTGP. Nói cách
khác, từ đây MTDTGP không còn những thành phần tuy đối kháng với chính thể
NVN, nhưng chưa hoàn toàn quy phục Hà Nội.
Cũng từ đây, CS Hà Nội nắm phần điều khiển 100% MTDTGPNVN.
Tuy CS thất bại về quân sự trong cuộc tổng tấn công, nhưng CS đã
gây được tiếng vang trên thế giới và đặc biệt tại Hoa Kỳ, nơi đang diễn ra
phong trào phản chiến, đòi hỏi chính phủ Hoa Kỳ phải rút quân khỏi Việt
Nam. Phong tào phản chiến Hoa Kỳ sẽ
rất dữ đội trong năm sau, 1969.
KẾT LUẬN
Lúc đầu, đảng LĐ tức đảng CSVN tìm cách chối bỏ trách nhiệm về cuộc
tổng tấn công Tết Mậu Thân. Trong một
cuộc phỏng vấn hiếm hoi của một ký giả Tây phương vào năm 1969, bộ trưởng bộ
Quốc phòng Bắc Việt Nam lúc đó, đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chối rằng Hà Nội
không tổ chức tổng tấn công Tết Mậu Thân: "Chúng tôi không dính gì tới chuyện đó. Chuyện đó do Mặt trận [Dân tộc Giải
phóng] thực hiện." (Don
Oberdorfer, sđd. tr. 45. Nguyên văn: "We had nothing to do with it.
The [National Liberation] Front
put it on.") Tuy nhiên,
theo những tài liệu càng ngày càng được phát hiện rõ ràng, cuộc tổng tấn
công Tết Mậu Thân hoàn toàn do đảng LĐ ở BVN chủ trương.
Đảng LĐ bất kể truyền thống cổ truyền về ngày Tết dân tộc, không
tôn trọng những cam kết về hưu chiến, bất ngờ tổng tấn công để giành lấy thắng
lợi. Đảng LĐ không thành công trên
chiến trường. Miền NVN vẫn đứng vững. Đảng LĐ không tổ chức được cuộc tổng khởi
nghĩa.
Dân chúng không hưởng ứng cuộc tổng khởi nghĩa của CS, bỏ vùng CS
tạm chiếm, chạy về phía quân đội VNCH.
Dân chúng lại ghê sợ những sáng kiến giết người dã man của cán bộ
CS, nhất là việc chôn sống người. Cuộc
tổng tấn công và tàn sát của CS là một thông điệp đỏ gây khủng bố và khiếp
sợ cho dân chúng thành phố NVN đối với CS.
Từ đây, chẳng những dân chúng nông thôn mà cả dân chúng thành phố
cũng rất hãi hùng bàn tay sắt máu của CS.
Đó là lý do vì sao khi ra hải ngoại, một số người có thân nhân bị CS
tàn sát, không dám lên tiếng tố cáo CS, vì sợ bà con trong nước bị CS giết
tiếp.
Nói chung, dầu thất bại về quân sự, CS Hà Nội đã đạt được các dự
tính chính trị quan trọng qua biến cố Tết Mậu Thân, gây chấn động mạnh ở
Hoa Kỳ khiến những cuộc biểu tình phản chiến càng ngày càng gay gắt.
Một điểm cần ghi nhận thêm là để xóa dấu vết tội ác trong biến cố
Mậu Thân tại Huế, sau khi chiếm được miền Nam năm 1975, CS tuyên phong “liệt
sĩ” cho một số người bị CS giết, đổ tội cho “Mỹ Ngụy” chứ không phải CS sát
hại. Đểu đến thế là cùng. Gia đình những “liệt sĩ” nầy không dám từ
chối sự phong tặng vì sợ CS tàn sát thêm lần nữa.
Gần đây, vào cuối năm 2012, ở trong nước xuất hiện bộ phim tài liệu
dài 12 tập, mỗi tập dài 30 phút, nhan đề là “Mậu Thân 1968” của đạo diễn Lê
Phong Lan do Trung Tân Phim Tài Liệu và Phóng Sự của Đài Truyền Hình Việt
Nam, phối hợp với hãng phim Truyền Hình Bản Sắc Việt Nam sản xuất, đã trắng
trợn chối bỏ sự thật, thay trắng đổi đen, nhằm xóa bỏ tội ác CS trong vụ
tàn sát Tết Mậu Thân. Dư luận dân
chúng Huế đã lên án gay gắt bộ phim nầy.
Dù CS luôn luôn chủ trương bóp méo lịch sử để chạy tội; dù những nấm
mồ dưới lòng đất có thể đã bị tiêu hủy qua thời gian; nhưng những nấm mồ
trong tim dân chúng Huế và dân chúng Nam Việt Nam vẫn còn đó. Lịch sử vẫn còn đó. Làm sao CS chạy tội được trước lịch sử! “Trăm
năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.”
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 17-4-2016)
|