Nhật Trường - Trần Thiện Thanh:
"Thanh Âm bất diệt, vượt quá Sự Chết..."
Phan Nhật Nam
Dòng nhạc Trần Thiện
Thanh
Nhật
Trường Trần
Thiện Thanh là người nghệ sĩ sống nổi trôi theo cùng với vận nước và cuộc
chiến đấu bi tráng của Người Lính Việt Nam Cộng Hòa trong suốt cuộc chiến
1960-1975 nơi Miền Nam . Thế nên, dẫu thuộc về thế hệ trẻ tuổi lớn lên sau
1975, không kinh nghiệm, liên hệ với cuộc chiến vừa qua. Theo diễn tiến thứ
tự thời gian, qua các nhạc phẩm thì chúng ta gần như có đủ một bức tranh
tổng thể cho cả miền Nam, lịch sử chiến đấu của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa
từ 1954 đến ngày tàn cuộc 30 tháng 4 năm 1975.
Nhật
Trường-Trần Thiện Thanh đã viết về người lính với những dòng nhạc ngợi ca, lời thơ trữ
tình, biểu hiện những ước mơ nhân bản. Những nhóm từ ngữ: “Anh không chết
đâu anh.. Nhớ anh trời làm giông bão.. Người yêu của lính.. Từ khi anh thôi
học, từ khi anh khoác áo trellis..” đã trở thành ngôn ngữ quen thuộc của
người Miền Nam trong đối thoại, tiếp xúc khi nói về những sinh hoạt, cảnh
sống thực tế. Phá Tam Giang vùng Quảng Trị-Thừa Thiên được biết ra, nói tới
nhiều hơn không phải chỉ qua những lời thơ (đã trở thành quen thuộc như ca
dao)… “Yêu em anh cũng muốn vô. Sợ truông nhà Hồ. Sợ Phá Tam Giang..” nhưng
đã được hiện đại hóa, thông tục hóa bởi Chiều Trên Phá Tam Giang – Nhạc
phẩm Trần Thiện Thanh phổ thơ Tô Thùy Yên trải dài khắp Miền Nam qua tiếng
hát Nhật Trường. Và lẽ tất nhiên, những giòng nhạc này đã bị cắt đứt bởi
những người đã đoạt chiếm miền Nam.
Nhưng
nay, ba-mươi-bẩy năm hơn sau ngày 30 tháng Tư, 1975 cuộc tập họp đông đảo
của hàng ngàn khán thính giả là một thực chứng: Người Nghệ Sĩ luôn sống mải
trong chúng ta. Nhật Trường Trần Thiện Thanh quả thật đã… “Không Chết Đâu
Anh” như dòng nhạc bất tận về “Người Anh Hùng Mũ Đỏ tên Đương” mà anh đã
một lần tha thiết dựng nên.
Nhật
Trường-Trần Thiện Thanh đã xây dựng những ca khúc, hát nên tiếng lời ca
ngợi Người Lính với một tấm lòng – Tấm Lòng của Bằng Hữu. Bởi Tình Chiến
Hữu. Điều đáng nói trước tiên là anh đã thực hiện công việc cao quý kia
không phải do yêu cầu từ những cơ quan tâm lý chiến trong hay ngoài quân
đội, do một nghiệp vụ thông tin, tuyên truyền, nhưng bởi thôi thúc của Bổn
Phận – Bổn Phận được xác định như một Nhiệm Vụ Tự Nguyện – Nhiệm vụ của một
Người Lính đối với Chiến Hữu còn sống hay đã chết. Và qua nhiệm vụ tự
nguyện nầy, bằng tài năng kỹ thuật điêu luyện, cao độ (thật ra chỉ là mặt
hiện thực từ, của “ý thức tình nguyện tận hiến” làm nền tảng), Trần Thiện
Thanh đã viết nên, kể lại câu chuyện vô vàn về đời sống, lần yêu mến thiết
tha, khi chia ly cuộc tình, buổi gục chết bi thảm.. của những đơn vị con
người trong muôn một nơi Miền Nam – Những nhân vật ở đời sống bình thường
(của mỗi chúng ta) nhưng đã phải kinh qua những tình huống, điều kiện sống
vô vàn nguy biến suốt một cuộc chiến cực độ khắc nghiệt – Người Lính Miền
Nam – Nhân vật hằng bị xuyên tạc, mạ lỵ bởi một kẻ thù thâm độc, cũng như
từ tập đoàn “người bạn đồng minh” quá đỗi thực tế đến độ nhẫn tâm.
Chúng
ta có thể kết
luận mà không sợ sai lầm, nếu không có con đê vững chắc bảo vệ dậy nên từ
giòng nhạc, tiếng hát của những Chiến Sĩ Văn Hóa-Văn Nghệ nhiệt tâm như
Nhật Trường-Trần Thiện Thanh thì ắt hẳn ngày nay chúng ta (cùng những thế
hệ Người Việt trẻ tuổi ở hải ngoại cũng như trong nước) đã là những đối
tượng bị tác động một cách dễ dàng thuần thục do chính sách vận động, tuyên
truyền phát xuất từ nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội.
Nhật
Trường - Trần Thiện Thanh đã sống đủ cơn cào xé đau thương chung của Miền Nam
ngay từ ngày 30 tháng 4, 1975, và cùng cả nước sau ngày uất hận kia với tâm
chất trung hậu mẫn cảm của người Người Nghệ Sĩ – Lần lăng nhục dài lâu chỉ
chấm dứt vào năm 1993 – Khi anh ra khỏi nước trở lại cùng chúng ta và thế
giới âm nhạc đã bị người Cộng Sản thô bạo đóng chặt từ 1975 ở Việt Nam.
Đồi
31 ở mặt trận Hạ Lào, tháng Hai, 1975.. Đại quân Miền Nam gồm: Sư Đoàn
Nhẩy Dù, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, Sư Đoàn I Bộ Binh, Lữ Đoàn I Thiết
Kỵ, và Liên Đoàn I Biệt Động Quân cùng vượt biên giới Lào-Việt tiến đánh
vùng hậu cần Tchépone của cộng sản Bắc Việt trên đất Lào. Lữ Đoàn 3 Dù gồm
các Tiểu Đoàn 2, 3, và 8 giữ mặt Bắc của trục tiến quân. Vị trí Đồi 31 của
Tiểu Đoàn 3 Dù được Pháo Đội B3 Pháo Binh Dù do Đại Úy Nguyễn Văn Đương chỉ
huy yểm trợ. Vòng đai cực Bắc của Biệt Động Quân bị tấn công trước; tiếp vị
trí Đồi 30 của Tiểu Đoàn 2 Dù bị công phá.. Cuối cùng, chỉ còn lại Căn Cứ
Đồi 31 giữa vòng vây của một sư đoàn Bắc Việt (tỷ lệ 1 chống 15). Ngày
25/2, Đồi 31 bị tràn ngập, Đại Tá Nguyễn Văn Thọ và toàn ban tham mưu lữ
đoàn đồng bị bắt, căn cứ chỉ còn khẩu pháo cuối cùng, Đại Úy Đương hạ ngang
nòng bắn thẳng vào toán quân cộng sản theo xe tăng T54 ào lên đồi chiếm mục
tiêu, và ông gục ngã với khẩu pháo cuối cùng bị phá hủy. Trần Thiện Thanh
dựng nên chân dung bi tráng hùng vĩ của Người Lính… “Anh không chết đâu
anh.. Tôi vẫn thấy đêm đêm một bóng dù sáng trên đồi máu. Nghe trong đêm
kêu gào từng tiếng súng pháo đến mau. Và tiếng súng.. Tiếng súng hay nhạc
chiêu hồn đưa anh đi mau.. Đi mau!! Anh không chết đâu em.. Anh chỉ vừa bỏ
cuộc đêm qua.. Trong những tiếng reo hò kia kia.. Lẻ loi tiếng súng anh
nhiệm mầu.. Ôi tiếng súng sau cùng đó.. Anh còn nghe tầm đạn đi không anh…”
.
Ngôn
ngữ, cấu nhạc bi hùng của khúc hát đã thăng hoa về lần quyết tử lẫm
liệt của Đại Úy Nguyễn Văn Đương, và những chiến binh, pháo thủ của Lữ Đoàn
3, Tiểu Đoàn 3 Dù, pháo đội B3 nơi Đồi 31; cũng như toàn thể những người
lính của các đơn vị, Bộ Binh, Biệt Động Quân, TQLC, Thiết Giáp, Pháo Binh
đã gục ngã nơi chiến điạ Hạ Lào… Không có tinh thần hiệp sĩ hiến thân của
Người Lính không thể viết nên tiếng lời cực độ cảm khích nầy. Không có tấm
lòng từ nhân xót đau của Người Nghệ Sĩ không thể cấu tạo nên giòng nhạc bi
tráng thắm thiết như trên…
Quê
hương nồng nàn
âm sóng biển, mùi muối mặn ấy đã nuôi lớn, phát triển nên tâm chất sung
mãn, nhân ái của người nghệ sĩ, nên sau nầy dẫu khi xa khuất, trên đường
hành quân, nơi những vùng đất khổ quê hương.. Giọt mồ hôi khô trên môi vẫn
âm vang mùi muối thơ ấu ngày xưa, và trước mắt thoáng hiện vô hồi.. “Vùng
hoang vu bóng dừa bờ cát dài. Gió lên từng chiều vàng.. “ Người nghệ sĩ đã
mang quê hương theo cuộc lữ của mình…
Khoảng
giữa thập niên
1960, Nhật Trường-Trần Thiện Thanh từ giã học đường để trở thành người
lính, rồi cũng từ đó Nhạc Lính của ông ra đời. Với những bài ca gần gũi,
phản ảnh tâm trạng của người trẻ tuổi vừa xa cuộc sống bình yên, nhưng vẫn
còn nguyên tính thơ mộng nhân bản của tuổi mới lớn.. Nhưng những người lính
trẻ đầy tính thơ mộng trong Tình Thư Của Lính dần tiếp cận chiến tranh… và
họ chạm dần đến biên giới cuối cùng của Sự Chết vào một thời điểm không thể
nào quên. Chiến trận Mậu Thân, Tết 1968 đỗ xuống toàn Miền Nam với những cái
chết được xem như tai ương không bề tránh thoát.. Từ lần chết bi thảm oan
khốc của ngàn người dân vô tội bị chôn sống nơi Trường Gia Hội, Bãi Dâu,
Khe Đá Mài, Núi Ngũ Tây ở Huế.. đến cái chết bất ngờ giữa đêm Giao Thừa khi
đang thắp hương, cúi lạy trước bàn thờ nơi Hàng Xanh, trong Chợ Lớn, ở Xóm
Mới, Gò Vấp.. Thế nên, đến khi bài hát Rừng Lá Thấp của Trần Thiện Thanh
vang lên, người dân thấm hiểu nên điều cao quý: Hóa ra họ đã sống sót được
từ máu xương Người Lính. Miền Nam đã tồn tại, vượt qua trận lửa là do lần
hy sinh không hề được xưng tụng từ ngàn vạn người lính vô danh – Những
Người Lính chết khắp nơi suốt Miền Nam, mà nay, vừa nằm xuống không đâu xa,
nơi chân Cầu Bình Lợi, trong đám lá lục bình sùi sụt bùn hôi, ở cửa ngỏ Sài
Gòn đường đi Thủ Đức, Lái Thiêu… “Sao không hát cho người đánh giặc trên
cầu.. Khi bùn lầy còn pha sác áo xanh. Trong khói súng xây thành, mắt quầng
thâm mất ngủ.. Sao không hát cho những bà mẹ từng đêm ngóng con xa.. Hay
hát cho những người vừa gục xuống chiều qua”?
Trần
Thiện Thanh không chỉ viết lời ai điếu bi tráng riêng cho Đại Úy Vũ Mạnh
Hùng của Binh Chủng Thủy
Quân
Lục Chiến – Đơn vị đã chận địch tại Hàng Xanh, Cây Thị, Cầu Sơn, Cầu Bình
Lợi qua Rừng Lá Thấp, mà sau đó đã dựng lại phút giây khốc liệt của Phước
Thịnh, Đại Úy Trần Duy Phước, Tiểu Đoàn 9 Nhẩy Dù nơi chiến địa Tây Ninh
trong Giấc Ngủ Trên Đồi Xanh. Anh cũng đã cùng Đại Úy Phi Công Trần Thế
Vinh bay lên cao vào nơi bất tận trong Bay Lên Cao Đi Anh.. qua cái chết
bão lửa khi con tàu lao xuống bắn cháy chiếc xe tăng cộng sản thứ 21 nơi
chiến trường Trị-Thiên tháng Tư, 1972. Trần Thiện Thanh cũng sống đủ với
người chết xác liệm ba lần, Đại Úy Thiết Giáp Nguyễn Ngọc Bích nơi chiến
trường La Vang, Quảng Trị trong nhưng ngày Hè đỏ lửa quê hương.. Những
người tuổi trẻ không trở lại với cuộc đời sau lần đi khuất lẫm liệt.
Trên
Đỉnh Mùa Đông
là một ca khúc hợp soạn giữa Trần Thiện Thanh cùng người em ruột của ông,
Thiếu Úy Trần Thiện Thanh Toàn, một sĩ quan trong QLVNCH, mà tựa đề đã được
nhạc sĩ Trần Thiện Thanh xử dụng trong vở nhạc kịch cùng tên. Tác phẩm nầy
đã làm tuôn chảy bao nước mắt cảm xúc từ khối đông khán giả mà vai nữ chính
trong vở nhạc truyện Trên Đỉnh Mùa Đông luôn được giao cho nữ ca sĩ kiêm
tài tử điện ảnh Thanh Lan được đánh giá là nghệ sĩ diễn xuất sống động
thích đáng nhất bên cạnh Nhật Trường – Do từ mối đồng cảm thâm sâu giữa
nghệ sĩ trình diễn và nghệ sĩ sáng tác – Giải thích hiện tượng nầy không
khó đối với trường hợp của Nhật Trường-Trần Thiện Thanh, bởi như chúng ta
hằng nhận ra: Chỉ do từ Phẩm Chất Nghệ Sĩ – Những Nghệ Sĩ Thật Sự tài năng
luôn tạo nên mối đồng cảm chân tình giữa họ và khối đông gồm: Những người
trình diễn – Những khán thính giả.
Nam
Lộc kể tiếp câu
chuyện bi thảm có thật (như muôn vàn câu chuyện tan vỡ, chia ly, tử biệt
trong chiến tranh, nơi Miền Nam): Thiếu Úy Phạm Thái gặp gỡ Mộng Thường
trên chuyến bay Air VN sau khi mãn khóa sĩ quan Đà Lạt về Sàigòn trình diện
Bộ Chỉ Huy BĐQ, trước khi lên đường tác chiến. Tình yêu nảy nở dần theo
thời gian giữa hai người tuổi trẻ.. Liên Đoàn BĐQ của Phạm Thái trách nhiệm
gánh nặng chiến đấu tại mặt trận An Lộc ngay từ giờ mở đầu chiến trận,
những ngày tháng 4 năm 1972. Phạm Thái bị thương và ghi nhận là mất tích.
Tin người yêu tử trận về đến Sài Gòn khiến Mộng Thường bàng hoàng đau đớn tột
độ. Nhưng bỗng có một ngày Phạm Thái lại rạng rỡ trở về tìm đến với người
yêu trong hình hài toàn vẹn. Anh đã được một Bà Xơ cứu thoát và dấu trong
nhà thờ cho đến khi bình phục. Phạm Thái trở lại An Lộc, được vinh thăng
Trung Úy, anh viết thư báo tin người yêu, Mộng Thường đi xe đò lên dự buổi
lễ gắn lon, nhưng định mệnh nghiệt ngã, chiếc xe đò trúng mìn cộng sản tan
nát thành mảnh vụn. Mộng Thường vĩnh viễn ra đi về thế giới bên kia, bỏ lại
nỗi đau đớn tận cùng của người yêu, chàng sĩ quan trẻ mang tên Phạm Thái.
Nhạc phẩm Tình Thiên Thu, Nguyễn Thị Mộng Thường được nhạc sĩ Trần Thiện
Thanh viết nên để tiếc thương hình bóng Mộng Thường cùng mối tình đã chết
theo cuộc ly biệt đau thương trong thời chiến.
So
sánh với những
người viết nhạc cùng thời về Chủ Đề Lính, thì có lẽ ít ai để ý đến nhiều
khía cạnh trong cuộc đời và thân phận người lính bằng Trần Thiện Thanh, và
đó cũng là lý do để những bài nhạc của anh đã làm cho cả một hậu phương
đang thờ ơ bỗng trở nên biết yêu thương, kính phục người lính; thúc dục
người lính hãnh diện hơn đối với cuộc sống quân ngũ của bản thân và đồng
đội. Anh được mệnh danh là “Nhạc Sĩ của Lính” bởi ảnh hình người mặc quân
phục, nét sắc, sinh hoạt của người lính tràn ngập hầu như toàn diện trên
các nhạc phẩm..
Trần
Thiện Thanh viết
về đủ các quân binh chủng.. Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân,
Bộ Binh, Không Quân, Hải Quân.. Mỗi bài đều mang những nét đặc sắc của
những người lính trong đơn vị binh chủng ấy, như bài Hoa Biển, đã trở thành
bài hát thuộc lòng của những người thủy thủ.. Hai bài hát viết vào thời Tết
Mậu Thân 1968 là bài Bà Tư Bán Hàng chuyện của một bà mẹ tự hào có những
người con đi lính trận, và một bài khác là bài Chị Ba Hàng Xanh, chuyện một
người đàn bà bình thường nhưng đã dũng cảm cầm dao chống lại những kẻ có vũ
khí khi toán bộ đội cộng sản tràn vào khu xóm trong giờ phút Giao Thừa
thiêng liêng cổ tuyền dân tộc. Hình như ít ai biết được Trần Thiện Thanh là
tác giả bản Sư Đoàn 1 Bộ Binh Hành Khúc – Khúc quân hành nung lòng chiến
đấu của đội ngũ chiến binh kiệt liệt của Quân Lực Miền Nam – Đơn vị bộ binh
chận giặc nơi vùng địa đầu đất nước qua lằn ranh Khu Phi Quân Sự nam Sông
Bến Hải.
Mùa
hè 1966, rừng
núi Tây Nguyên, thủ phủ Pleiku bày tràn cảnh tượng chiến tranh.. Đại pháo
ngày đêm ầm vang xé núi, dội rung thành phố, và khoảng không gian luôn bị
chia cắt bởi những đoàn phi cơ với đôi cánh sắt màu xám bạc vùn vụt xé
ngang bầu trời, để lại những âm động rì rầm đe dọa… Thị xã Pleiku trở nên
là một ”Thành Phố Lính” điển hình với những người lính đội nón sắt, lưng
đeo giây đạn mệt nhọc di chuyển khắp nơi; xe nhà binh, chiến xa chạy ngang
dọc bốc bụi mù đỏ chạch, hay kéo lầy bùn ố bẩn vào con đường phố chính..
Trong khung cảnh chiến tranh đè nặng xuống vùng thủ phủ Tây Nguyên, Trần
Thiện Thanh đã mô tả, sống cùng chiến tranh – người lính qua nhãn giới rộn
rã của tình yêu bất diệt luôn hiện diện với con người.. Điển hình thời điểm
sáng tác nầy, 1965-1966 chúng ta có thể kể ra ca khúc Tuyết Trắng để làm
dấu mốc khởi sự.
Nếu
ngày trước, qua
Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn được diễn ngâm bởi Đoàn Thị Điểm, chúng ta
có hình tượng người đi chinh chiến: Áo chàng đỏ tựa ráng pha. Ngựa chàng
sắc trắng như là tuyết in. Chàng từ đi vào nơi gió cát. Đêm trăng nầy nghỉ
mắt phương nao.. Thì nay, qua Tuyết Trắng, Trần Thiện Thanh đã mô tả nên
một hoạt cảnh hào hùng nhưng không kém phần lãng mạng, thơ mộng của Việt
Nam thời binh loạn. “Phi đạo chạy dài anh cất cánh bay lên.. Ngã nghiêng
cánh bay, con tàu khép lại một vùng tuyết trắng ngần…”. Từ trên cao, giữa
tầng mây lớp lớp, Người Nghệ Sĩ hiện sống giữa bầu trời, trên mặt đất quê
hương, để từ đấy viết nên lời ngợi ca hồn hậu rất hiện thực mà cũng tràn
đầy nhân tính.. (qua lần thay lời cho người phi công đang lái con tàu trong
một một phi vụ tác chiến..) để nói về nỗi thương nhớ đối với một người yêu
khi con tàu lao vào giữa vùng mây bảo. “Khi nắng chiều buông, không gian
chợt tối.. Xóa nhòa vùng tuyết trắng mênh mông…” – Mà thật sự cũng là một
bẫy chết có thể xẩy ra bất cứ lúc nào – Bởi đạn phòng không của bộ đội cộng
sản (những đơn vị nặng chính quy Miền Bắc) rất dễ dàng bắn hạ chiếc phi cơ
quan sát mỏng manh mà người bạn phi công đã bất chấp luật lệ an phi chấp
thuận cho Nhật Trường tháp tùng.
Chúng
ta cũng cảm nhận được “sức mạnh nhân bản” của ca khúc (dẫu chẵng phải
là một tuyệt tác hàng đầu nghệ thuật), nhưng đã tồn tại trên bốn-mươi năm,
và chắc chắn ngôn ngữ, thanh âm, thuần hậu của Trần Thiện Thanh… “Mây dâng
thật thấp, mây vương lụa trắng… mây pha mầu nắng…” sẽ tiếp tục tồn tại như
khối tuyết vân tinh khiết, vĩnh cữu có khả năng xóa mờ những “chân mây đỏ
máu in hình nòng súng cao xạ vươn lên trên trời cao!!”.. Loại hình tượng
tràn đầy “ác tính” trong những bài hát của những người cầm quyền cộng sản ở
Hà Nội luôn “giáo dục và huấn luyện” những người gọi là “nghệ sĩ nhân dân”
phải cố công viết nên thành.
Theo
nhận định của
Việt Dzũng, trong những ca khúc phổ thơ của những tác giả Nhất Tuấn, Kim
Tuấn, Du Tử Lê.. nơi Miền Nam , thì nhạc phẩm của Trần Thiện Thanh phổ thơ
của thi sĩ Tô Thùy Yên từ bài thơ bi thiết sâu lắng Chiều Trên Phá Tam
Giang là một trong những ca khúc phổ thơ có giá trị nhất. Đặc biệt với kỹ
thuật song tấu ở phần nhạc mở đầu bài hát. “Nhớ ôi là nhớ… ôi là nhớ đến
bất tận…”. Nhưng bài hát không chỉ có giá trị là thế, nó còn mở ra cho người
nghe những ấn tượng, biểu hiện mà Phá Tam Giang đã tạo dựng nên trong lịch
sử, văn học.. Và hơn thế nữa, bài hát nhắc nhở cho chúng ta, khán giả hôm
nay nơi hải ngoại về một ngày trọng đại của quê hương...
Mùa
Hè 1972 thế
trận giữ nước Miền Nam bước vào một giai đoạn quyết định với những chiến
thắng lẫm liệt khắp ba vùng: Kontum được giữ vững; An Lộc được giải tỏa, và
nơi vùng Hỏa Tuyến, Chiến Dịch Lôi Phong đang khai diễn với hai mũi tiến
công thần tốc cùng tiến về thị Xã Quảng Trị do hai đại đơn vị kiệt liệt
nhất của quân lực cộng hòa đảm nhiệm: Sư Đoàn Nhảy Dù và Thủy Quân Lục
Chiến. Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị tổ chức những cuộc “Đi và Sống với
Chiến Trường”có sự tham dự của những văn nghệ sĩ tên tuổi của Sài Gòn..
Một
buổi chiều Tháng
6, 1972 một chiếc trực thăng xuất phát từ Đà Nẵng bay lên căn cứ Hương Điền
của Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến sau đó theo Phá Tam Giang bay
dọc ra hướng Bắc hướng Cổ Thành Quảng Trị. Một trong ba hành khách trên
trực thăng – Tô Thùy Yên sau khi về lại Sài Gòn đã viết nên những lời thơ
tinh tế cô sắc..
Chiếc
trực thăng bay
là trên mặt nước. Như cơn mộng nhanh. Phá Tam Giang, phá Tam Giang, Bờ bãi
hỗn mang, dòng bát ngát.. Ngó xuống cảm thương người lỡ bước, Trời nước
mông mênh, thân nhỏ nhoi.. Nhìn xuống cảnh vật tàn tạ. Nhìn thấy con người
tan tác.. Người thi sĩ thấm hiểu ra cốt lõi bi thảm phi lý của chiến tranh:
Ví dầu người bắn rụng ta.. Như tiếng thét. Xé hư không bặt im.. Chuyện cũng
thành vô ích. Ví dầu ngươi gục. Vì bom đạn bất dung.. Nào có chi đáng kể!
Chuyển
qua Phần thứ Hai, bài thơ mô tả nỗi buồn thảm của phận người, và sự bất
lực của tình yêu dẫu là mối tình thắm thiết chân thật.. Và Trần Thiện Thanh
đã gắn thêm âm sắc kỳ ảo của cấu nhạc vào nỗi buồn bã của Chiều Trên Phá
Tam Giang… “Anh chợt nhớ em.. Nhớ ôi niềm nhớ ôi niềm nhớ… Giờ nầy thành
phố chợt bùng lên. Em giòng lệ vẫn rát chảy tuôn. Nghĩ đến một điều anh
không rõ.. Nghĩ đến một điều em sợ không dám nghĩ.. Hãy nghĩ tới anh.. Hãy
nghĩ tới anh. Đến một người đi giữa chiến tranh…”. Quả thật, từ tình yêu
“mộng mơ” trong Tình Thư Của Lính đầu thập niên 60 đến tình yêu của người
lính đang đối mặt với cái chết giữa chiều nắng vàng hoang sơ trên Phá Tam
Giang ngày Hè 1972 đã có một bước rất lớn – Bước của tận Khổ Đau. Cũng là
bước của thật Yêu Thương. Nhật Trường hiện thực bước nhảy vọt kỳ diệu nầy
trong âm nhạc thắm thiết Trần Thiện Thanh.
Cũng
vào thời điểm Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù đã đánh một
trận khốc liệt, cũng lẫy lừng nhất trong quân sử VNCH, tuy nhiên đơn vị
thiện chiến mệnh danh là Song Kiếm Trấn Ải này đã bị thương vong hơn bốn
trăm chiến binh, cùng để lại nơi đồi Charlie xác thân người anh cả của tiểu
đoàn: Cố Đại Tá Nguyễn Đình Bảo.
Nhân
lần gặp gỡ với
cá nhân tôi, Phan Nhật Nam (người viết bút ký Mùa Hè Đỏ Lửa) vào một buổi
cuối năm 1972 tại Sài Gòn. Trần Thiện Thanh có nhận xét: “Ông (PNN) viết
đọc nghe ghê quá – Đoạn viết trên “Đại Lộ Kinh Hoàng” ở Quảng Trị.. Viết về
tiếng lửa lép bép thịt da người nung chín!!”. Tôi thành thật trả lời: “Sợ
viết như thế cũng chưa đủ. Còn nhiều điều ghê gớm, đau thương hơn nữa..”
Khi trở lại quán nhạc Tiếng Hát Đôi Mươi (góc đường Lê Lợi-Công Lý), Trần
Thiện Thanh ngõ ý muốn viết một ca khúc căn cứ trên những nội dung Mùa Hè
Đỏ Lửa. Tôi ngần ngại.. “Sách tôi viết theo lối phóng sự chứ đâu phải thơ
để phổ nhạc.. Lại toàn chuyện súng đạn, chết chóc.. Tuy nhiên nếu muốn thì
ông lấy thử đoạn nói về Anh Bảo, chương “Người Ở Lại Charlie”. Và ca khúc
đã thành hình với tiếng lời vang dội núi sông, thăm thẳm trong lòng người
hơn ba-mươi năm qua, hiện vẫn còn tác động mạnh mẽ người nghe (trong cũng
như ngoài nước).
Bi
kịch không riêng
đối với những người lính Tiểu Đoàn 11 Dù, qua lần đi khuất của Cố Đại Tá
Nguyễn Đình Bảo – Nhưng cũng là bi kịch của mỗi thân phận Người Miền Nam
hiện thực qua hy sinh xả kỷ của Người Lính, sự chịu đựng âm thầm của Người
Vợ-Đứa Con Người Lính. Và hôm nay ba-mươi-bẩy năm sau ngày mất quê hương,
Nỗi Đau kia hằng mới vì Nỗi Đau Luôn Là Nỗi Đau Chung, cùng với những dấu
tích kỳ diệu miên viễn của Tình Yêu trong đời sống trần thế giới hạn của
nhân sinh.
Chúng
tôi xin dùng lời nhận xét của chính mình, cá nhân Phan Nhật Nam, người khách đã
đến theo lời mời của ban tổ chức chương trình để kết luận mà không sợ mang
tiếng đã nhận định quá độ về Người và Việc đối với một buổi sinh hoạt ca
nhạc:
“...
Nếu không có Nhật Trường-Trần Thiện Thanh thì ai trong chúng ta biết đến
một người gục chết nơi Rừng Lá Thấp ở chân Cầu Bình Lợi vào ngày đầu xuân
năm 1968 tên gọi Đại Úy Vũ Mạnh Hùng thuộc Tiểu Đoàn 3 Binh Chủng Thủy Quân
Lục Chiến?! Nhưng dẫu sao người chết trẻ ấy còn cho rõ một tính danh, một
cấp bậc, về một đơn vị, nơi một địa điểm không xa đường phố trung tâm Sài
Gòn. Vào cùng lúc suốt cuộc chiến dằng dặt mười–lăm năm, hằng này, hằng giờ
tại mỗi hẻm núi, sâu rừng thẳm, trên mỗi thước bùn lầy, kinh rạch nơi Miền
Nam, hằng trăm, hằng ngàn con người – Những người còn rất trẻ ngã xuống
không tiếng lời trăn trối, không hồi kèn truy điệu, tiễn biệt với lượng máu
tự thân thấm xuống mạch đất quê hương nhỏ giọt, im lìm.. Không có Nhật
Trường.
Không
có Trần Thiện Thanh nào ai biết Charlie, Delta.. là ở những nơi nào.. Vì
thật sự đấy chỉ là những cứ điểm quân sự nhỏ nhoi, vô danh bên sông Pô Kơ,
cạnh Đường 14, lối lên Dakto, Daksut xa xôi...
Nhật
Trường – Trần Thiện Thanh đã đưa những nơi chốn heo hút, nguy biến kia vào
trí nhớ người Miền Nam luôn nhớ nước, cũng đồng thời nhắc nhở cho mỗi chúng
ta biết rằng, khi đang sống yên lành ở Sài Gòn, Nha Trang, Đà Lạt, Cần Thơ
là lúc được bảo vệ bởi muôn vạn người lính vô danh – Những Người Quyết Tử
cho Tổ Quốc Quyết Sinh – Hành vi hiến tế cao cả không hề tuyên công mãi sau
30 tháng Tư, 1975, người Miền Nam (của tất cả Việt Nam) khi bước chân xuống
thuyền vượt biên mới nhận ra: Họ đã không còn Người Lính Bảo Vệ – Bởi Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa đã bị bức tử cùng lần sụp vỡ Miền Nam.
Và
cuối cùng, khi lao mình vào sóng lớn biển khơi với con tàu mỏng manh nhỏ
bé, tất cả những người vượt biển, hoặc xuyên rừng rậm vượt biên trong suốt một
thập niên 70-80 chắc hẳn không vì những nguồn lợi vật chất nơi nước Mỹ,
Canada, Australia thúc dục.. Khối người cao thượng đó – Chính là mỗi chúng
ta đã hiện thực một chọn lựa linh thiêng không hề nói ra lời – Hoặc Chết
hoặc được sống Tự Do. Tương tự như thế, sự có mặt của mỗi khán giả hôm nay
trong buổi sinh hoạt mang chủ đề Anh Không Chết Đâu Anh bao gồm một giá trị
thầm kín vĩnh cửu – Mỗi Người Việt thật mang sẵn một sứ mạng cao quý: Họ
chính là nhân tố, là nguồn sức mạnh thực hiện cuộc chiến đấu cho Tự Do –
Một cuộc chiến chưa hề kết thúc. Không bao giờ chấm dứt. Cao hơn cái chết.
Vượt quá cái chết.
Phan Nhật Nam
|