MÙA PHỤC SINH
“Anh em hãy yêu
thương nhau, như Thầy đã yêu thương anh
em.” (Ga 15,12)
Nguyễn
Quý Đại
Mùa đông Âu
Châu thời tiết năm nay khá lạnh, về đêm
đôi khi nhiệt độ xuống -20 độ C,
những cánh hoa tuyết không tan đọng hai bên
đường cao quá đầu gối, các hồ
nước bị đóng băng, những cánh đồng
rộng mênh mông toàn màu trắng của tuyết, những
giàn nho, giàn đường hoa thảo (Hopfen) không lá
đứng trơ vơ trong gió lạnh, từng đàn
quạ đen bay lượn tìm mồi trong bầu trời
mù ảm đạm, rừng thông già rủ lá buồn tênh .
Mọi người đang hướng về mùa
xuân , mùa hoa lá đâm chồi, nảy lộc phô bày sức
sống mới sau những tháng đông giá lạnh. Cuối
tháng ba trời nắng ấm, sáng tinh sương mặt
trời chưa ló dạng đã nghe tiếng chim hót véo von
trên những cành cây đang trở mình nở nụ. Mùa
Phục sinh đến kỷ niệm ngày Chúa Jesus Kitô
được sống lại (Auferstehung). Từ ngày 28.3
đồng hồ phải đổi thêm một giờ vì
ngày dài đêm ngắn.
Nước
Đức là quốc gia nhiều người theo Thiên Chúa
Giáo, bắt đầu thứ Tư lễ tro (Aschenmittwoch / Ash Wednesday ngày 17.02.2010). Từ
ngày thứ Tư lễ Tro và thứ Sáu Tuần Thánh,
Giáo hội kêu gọi các Kitô hữu từ 18 đến 60
tuổi ăn chay và kiêng thịt, các Kitô hữu từ 14
tuổi phải kiêng thịt vào ngày thứ sáu và chấm
dứt vào khuya thứ bảy tuần Thánh hay ngày Canh thức Phục Sinh[1]
(1)
Thánh lễ Linh
mục ghi dấu tro lên trán Tín đồ và đọc „Hỡi người, hãy nhớ
mình từ tro bụi và sẽ trở về với tro
bụi „ghi dấu tro để nói lên sự khiêm
nhường và nhắc nhở Tín đồ về sự
sống sẽ qua đi. Bước vào mùa chay (Fastenzeiten) 40
ngày. Tượng Chúa phủ khăn đen, Linh mục làm
lễ mặc áo màu tím. Giáo hội kêu gọi con chiên
sống với lòng bác ái, suy niệm, cầu nguyện hãm
mình và sấm hối, từ bỏ con đường
tội lỗi để được cứu rỗi.
Nến thắp sáng từ
đêm phục sinh cho đến các ngày lễ Chúa lên
trời (Christi Himmelfahrt /Ascension day và lễ Hiện
xuống Pfingstsonntag/ Whit Sunday là biểu tượng
của sự sống lại.
Nguồn
gốc lễ phục sinh và biểu tượng
Theo phong tục và dân tộc tính
ở các nước Trung Âu Châu (Đức, Pháp, Áo, Hòa Lan,
Bỉ, Lục Xâm Bảo, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha.. ) sau mùa
đông giá lạnh, xuân về có ánh nắng mặt trời
ấm áp làm đời sống vui tươi hơn. Mùa phục
sinh bắt đầu vào ngày của mùa xuân, thường
diễn ra vào tháng 3 hoặc tháng 4 mỗi năm để
tưởng niệm sự kiện Phục Sinh của Chúa
Jesus từ cõi chết trở về sau khi bị đóng
đinh trên thánh giá.
Ngày lễ nầy bắt nguồn từ ngày Chuá
Jesus bị đóng đinh trên thánh giá (Karfreitag / Good Friday) và sống lại (Auferstehung/
resurrection) biểu tượng cho sự sống (Leben/ live)
và sự phì nhiêu phong phú (Fruchtbarkeit/ fertility) thời xa
xưa người ta gọi lễ hội mùa xuân
(Frühlingsfest / spring festival) hay „Ostarum“ người Đức
gọi là „Ostara“ và danh từ „Ostern/ Easter“ nguồn gốc
từ chữ „Ost/ East“ hướng về phương
Đông mùa xuân mặt trời sắp lên, người Do Thái
gọi ngày lễ nầy là „Paschafest“ Người Ai Cập
(Ägypter) gọi là „Osterlamm/ paschal lamb)“ cũng nhằm ngày
rằm đầu tiên mùa xuân họ giết cừu ăn
mừng được giải phóng khỏi sự đàn
áp, thoát khỏi thân phận nô lệ
Hội nghị
về Tôn giáo ở Niaeza năm 325 công nhận lễ
hội mùa xuân, là ngày lễ Phục sinh sau khi Chúa sống
lại cho đến năm 1094 Oster Fest vui chơi 4 ngày
rồi sau đó 3 ngày, nhưng đến nay chỉ còn
lại 2 ngày. Lễ phục sinh năm nay vào ngày Chuá Nhật 04 tháng Tư. Thứ sáu trước
lễ phục sinh Osterfeiertagen tại Vatican Đức Giáo
Hoàng Benedicto XVI cử hành các nghi thức tưởng
niệm những sự kiện cuối cùng trong cuộc
đời Chúa Giêsu với hàng chục ngàn người tham
dự tại Petersdom gọi là „Urbi et orbi“
Ở Đức theo
phong tục vào Chúa nhật Phục sinh (Ostersonntag/ Easter
Sunday) cha mẹ hay ông bà thường đưa trẻ con
đi tìm trứng „Ostereier suchen“ ở nơi nào đó mà các
Hiệp hội tổ chức giấu trứng gà chín tô
nhiều màu trong các bụi cây bờ cỏ.. đây cũng
là một thú vui đi dạo thưởng thức nắng
ấm đầu mùa. Nhiều gia đình dành sự ngạc
nhiên cho các cháu nhỏ, cha mẹ thường mua rổ
đan bằng mây hay tre lót những sợi giấy màu xanh
làm cỏ để trứng và các con thỏ làm bằng
chocolate giấu trong vườn hay nhà các cháu đi tìm.
Những buổi tiệc vui gia đình Đức sau mùa chay
thường ăn thịt cừu nướng „Osterlamm“
Lửa
phục sinh (Osterfeuer/
Easterfire)
Người ở vùng quê sống đời nông
nghiệp vui mừng mùa đông giá lạnh đi qua, xuân
đến bắt đầu gieo trồng rồi gặt
hái, nguồn gốc lửa Phục sinh ngày xưa
được đốt lên từ những cánh
đồng trong đêm đầu tiên Phục sinh, từ
đó sẽ thắp lên
ánh nến
Phục sinh. Ngọn lửa sưởi ấm mùa đông
dài lạnh lẽo vì thời xa xưa không đủ
tiện nghi như ngày nay có lò sưởi
điện..Người Ai Cập từng tôn thờ
thần mặt Trời xem ánh lửa như thần thiêng.
Miền bắc Na Uy thiếu ánh sáng mặt trời, mặt
trời tái xuất hiện vào cuối tháng Giêng khoảng 4
phút, học sinh ở Trombo nghỉ học một ngày
để chào mừng ánh mặt trời, ngược
lại mùa hè đêm 23 tháng 7 thì mặt trời không hề
lặn, không có mặt trời thì trên trái đất nầy
sẽ không có sự sống, vì thế ánh lửa Phục
sinh cũng là nguồn sống
của con người, lửa Phục sinh tượng
trưng cho ánh sáng mới mà Chúa đã mang đến cho chúng
ta. Từ năm 750 ở Pháp đã có phong tục
đốt lửa Phục sinh, thời sơ khai
người ta dùng hai hòn đá đánh cho xẹt ra lửa,
rồi từ từ biết dùng khí đốt. Đến
thế kỷ thứ 11 ở Đức đã dùng ánh
lửa như một sự dâng hiến trong các nghi lễ
về Tôn giáo.
Nến
Phục sinh (Osterkerze/ Eastercandle)
Các
Tôn giáo đều sử dụng nến (đèn cầy)
đốt sáng trên bàn thờ, ánh sáng nến có thể
đem vào nơi tối tăm, năm 384 lần đầu
tiên ở Piacenca thánh Hieronymus (347- 419) viết trong thư Tôn
đồ về ý nghiã biểu tượng của nến
Phục sinh là sự sống. Đến năm 417 Giáo Hoàng
Zosimus cùng công nhận biểu tượng đó là sự
chết và sống lại của Chúa Jesus. Từ thế
kỷ thứ 7 thánh điạ La Mã công nhận và sử
dụng nến Phục sinh cho đến thế kỷ
thứ 10 được các quốc gia theo Thiên chúa sử
dụng cho đến thế giới ngày nay.
Ngày 21 tháng 2 năm 2010 Chúa Nhật
thứ 1 mùa chay.
Nến Phục sinh được đốt lên
từ đống lửa trước nhà thờ trong
đêm Phục sinh được thánh hóa theo phong tục lâu đời.
Nến đốt sáng được rước vào nhà
thờ, Tín đồ sẽ thắp nến của mình
từ cây nến Phục sinh cả nhà thờ
được rực sáng bởi ánh nến là dấu
hiệu của sự sống, chiến thắng
được tội lỗi và sự chết. mọi
người reo mừng „Christus
ist das Licht- Gott sei ewig Dank“ Ngày phục sinh cây nến có
ghi hình thánh giá hay khắc tia ánh sáng mặt trời hay dòng
nước..Trên nến có cắm 5 dấu đinh, phía trên
ghi mẫu tự Alpha và bên dưới mẫu tự Omega
với ý nghiã đầu tiên và cuối cùng của tiếng
Hy Lạp, tượng trưng cho chúa Jesu là khởi
đầu và cuối cùng,
chung quanh cây nến ghi năm để nói lên „ Chúa Jesus là Đấng cứu
độ từ khởi đầu, hôm nay và mãi mãi „Trong
các lễ rửa tội, hay lễ an táng nến Phục
sinh được đốt sáng.
Trứng
(Ostereier/ Easter egg)
Từ
thế kỷ thứ 12, Thứ bảy Phục sinh
Ostersamstag người ta nấu trứng gà chín và sơn màu
sắc sặc sở với những ý nghiã đẹp: màu
đỏ tượng trưng cho may mắn, màu xanh cho hy
vọng, trẻ trung vô tội, màu vàng cho sự khôn ngoan, màu
trắng cho thanh bạch màu cam cho sức mạnh .. bỏ
trứng trong giỏ với những thức ăn khác mang
đến nhà thờ. Tại Bulgaria, các giáo sỹ Cơ
đốc giáo chính thống dâng các quả trứng
nhuộm đỏ truyền thống trong một buổi
lễ tại thị trấn Varna. Trứng còn biểu
tượng cho sự khởi nguyên của sự sống,
bởi vậy theo truyền thuyết người chết
được tẩm
liệm người ta để trong quan tài một cái
trứng biểu tượng cho cứu chuộc và sự
sống đời sau, trên quan tài người chết
thường cúng cơm có
trứng gà. Người ta quan niệm con gà
con tự mổ vỏ trứng chui ra, Chúa Jesu bị hành
hạ đánh đập qua những đoạn
đường dài khổ cực vác thánh giá rồi bị
đóng đinh chết an táng trong ngôi mộ đá đã
đập vỡ cửa mồ và sống lại.
Thỏ phục sinh
Osterhase/ Easter bunny
Các chuyện thần thoại hay
trong dân gian đều có chuyện vui giúp đời như
con thỏ là con vật hiền lành không làm hại sinh
vật nào,Thỏ không có khả năng tấn công hoặc
gây nguy hại cho các loài động vật khác, nhưng
lại thường xuyên bị những con như sói, báo,
chim ưng, cú... uy hiếp. Chính vì vậy, thỏ
thường xuyên phải vểnh tai để chú ý xem
bốn phía chung quanh có động tĩnh gì không, nhằm
đề phòng bất trắc. Trong hoàn cảnh khắp
nơi là kẻ địch như vậy, nên đôi tai
của thỏ đặc biệt to dài nghe rất thính
để chạy trốn khi nghe tìếng động
trước sự tấn công.
Nữ thần ái tình Hy Lạp „Liebesgöttin Aphrodite“ cho
đến Nữ Thổ Thần Nhật Nhĩ Nam „Erdgöttin Holda“ đều yêu
chuộng thỏ. Ở Byzanz Tây Ban Nha xem biểu tượng con thỏ là một Thiên
sứ. Mãi cho đến thế kỷ thứ 16 nhiều điạ
phương đã quan niệm các con thú khác như cáo, gà, cò
chim cu, hạt, cú đã mang trứng đi giấu ..Thỏ
sống cách đây 55 triệu năm bộ xương
thỏ vừa được khai quật ở Mông
Cổ. Gomphos elkema, tên của con vật, là thành
viên cổ nhất trong họ nhà thỏ từng
được tìm thấy. Phân tích Gomphos đã cho
thấy, thỏ hiện đại, cùng với các loài thú
khác, đã xuất hiện sau thời kỳ khủng long.
Các nhà sinh vật học cho biết thỏ sinh
sản nhiều, nhưng chú thỏ Phục sinh xuất
hiện từ năm 1678 do một giáo sư Y khoa Von Georg Franck ở Franckenau
dạy đại học Heidelberg công nhận thỏ là
biểu tượng của sự sinh nở phong phú,
một con thỏ mẹ hàng năm có thể đẻ 20
thỏ con, mùa xuân với cỏ non làm thực phẩm cho
các chú thỏ con vừa chào đời, vào tận trong
vườn để tìm thức ăn, trứng phục
sinh được sơn nhiều màu, người lớn
đã cắt nghiã do các chú thỏ mang tới, từ đó
có thỏ và trứng. Từ thành phố zurich Thuỵ Sĩ
là nơi phát họa ra chú thỏ và cái trứng trong mùa
phục sinh. Sau đó các hãng sản xuất kẹo bánh,
không bỏ cơ hội buôn bán từ năm 1875 sản
xuất những chú thỏ bằng schololate làm bằng tay,
mãi cho đến đầu thế kỷ 20 mới sản
xuất bằng máy theo kỷ nghệ
Hoa phục sinh
Người
Đức thường dùng cành cây tươi, treo những
cái vỏ trứng gà, sơn nhiều màu và những con
thỏ nhỏ bằng schocolat cho trẻ em, và các loại
hoa thường dùng như Thủy tiên Osterglocken/daffodil;
Uất kim cương Tulpen / Tulip; Phong tín tử Hyazinthen /
hyacinth; Cúc đồng Gaenebluemchen/ dasiy; Bồ công anh
Loewenzahn/ dandetion; Mao cấn Hahnenfuss/ buttercup..
Mùa Phục sinh bên quê nhà thì nắng ấm, năm
nay nhiều nơi hạn hán không đủ nước cho
các vụ mùa, thời tiết mỗi lục địa khác
nhau, nhưng những mùa lễ Giáng Sinh, Phục sinh
đều giống nhau. Trước 1975 Việt Nam Nam
Bắc chia đôi, sinh hoạt đời sống về an
sinh bị khó khăn, những ngày lễ cũng giới
hạn với giai đọan chiến tranh. Ngày nay Việt
Nam thanh bình thường tổ chức các lễ hội
như đi Chùa Hương, giổ Tổ Hùng Vương,
Trung Thu, Giáng sinh, lễ hoa Đà lạt, lễ tế Nam
Giao và nhiều lễ hội khác ở các điạ
phương tổ chức linh đình nhằm phục
tồn truyền thống văn hoá cổ truyền(?). Ngày
lễ tinh yêu (Valentinstag) trước đó Việt nam
chưa từng thực hiện, nhưng ngày nay các chàng dù
nghèo cũng dành tiền mua cho người yêu một đóa
hoa hồng, một món quà nhỏ
Hy vọng đời sống Việt Nam phát
triển về kinh tế Dân Trí và Dân Quyền cũng phát
triển theo, để quê hương chúng ta thật
sự Tự Do và Dân Chủ bảo vệ giang sơn
gấm vóc của Tiền nhân để lại, mong giảm
bớt nghèo đói và lạc hậu. Các nước Tây
phương vật chất đầy đủ, sau
lễ Giáng Sinh Tết, ngày tình yêu… lễ hội hoá trang,
tiếp đến lễ Phục sinh các siêu thị
lớn, nhỏ đều bày bán những con thỏ
bằng Chocolat, trứng sơn đủ màu và những
thiệp Chúc Mừng Phục Sinh. Frohe Ostern / Happy Easter
Chúa sống lại
từ cõi chết nhờ quyền năng vinh hiển
của Chúa Cha, thì chúng ta cũng được sống
một đời sống mới” (Rm 6: 3- 4) để an
ủi và đem hy vọng cho những ai buồn sầu vì
số phận sẽ phải chết hay đau khổ, khi
có người thân yêu vừa mất. Theo luật
tạo hoá con người phải chết. Nhưng nhân
loại hy vọng được sống lại
như Chúa sau khi phải trải qua cái chết của
thân xác.. Ước mong niềm tin vào Đấng Phục
sinh luôn đem đến cho Giáo hội, cho Thế giới
và mọi người dân trên trái đất này sự bình
an, ơn hiệp nhất để cùng hướng về
mục đích của kiếp người là
được hưởng sự sống vĩnh hằng
trong ngày sau hết. .. ở New York, giáo hội Mỹ
thả 12 con chim bồ câu, tượng trưng cho các tông
đồ của Chúa được cử đi truyền
bá Phúc âm cho thế giới.
Tóm lược lịch sử những ngày Chúa bị nạn và sống
lại
Lễ Lá
Palmsonntag (còn gọi là Chúa Nhật Thương Khó), Chúa Jesus
cưỡi lừa vào thành Jersusalem. Khi Chúa tới, các tông đồ vội vàng ném
những nhánh lá [2]
(2) dưới chân Chúa để làm tấm thảm. Ngày nay
người ta mang những cành lá tới nhà Thờ làm
lễ và treo bên Thánh giá để tránh những sự không
lành. Thời gian chưa
đầy một tuần lễ, Chúa đã làm lễ
rửa chân cho các môn đệ và thành lập Hội Thánh
đầu tiên ở trần gian, dọn mình trở về
với Chúa Cha như lời Thánh kinh.
Tin
mừng theo Thánh Luca 23, 1-49 con đường lên
Giêrusalem, con đường vinh quang. Con đường lên
Giêrusalem cũng là con đường thập giá. Quyết
định nào cũng phải có hệ quả của nó,
con đường nào cũng có cả hai mặt của nó.
Hạnh phúc và khổ đau,
nụ cười và nước mắt, cả hai quyện
lẫn vào nhau. Đó mới là cuộc sống. Nếu
chỉ nhặt lấy ra một trong hai khía cạnh,
một trong hai mặt, thì nó không còn là cuộc sống
nữa.
Biến cố, các
đạo trưởng, Caipha và Hội đồng Do Thái
muốn giết Chúa trước ngày lễ Vượt Qua,
nhưng thời ấy người Do Thái bị La Mã rút
quyền lên án tử hình..
người Do Thái đã mua chuộc Juda môn đệ
phản Thầy bắt Chúa Jesus, vào tối thứ Năm và
sáng thứ Sáu các trưởng tế, luật sĩ và
kỳ lão đem Chúa đến xử ở dinh quan Pontius
Pilatus (Philato) hôm đó là ngày áp lễ Vượt Qua…
Nhưng quan tổng trấn La Mã Pilatus yếu hèn không
ngăn ngừa được vụ án, để
người Do Thái đã đánh đập, hành hạ Chúa
trước khi đóng đinh… Dấu tích xưa
được ghi lại ở ngoại ô thành Jerusalem có núi
sọ người Do Thái gọi là Golgotha, Đồi
nầy làm nơi ném đá những người bị
xử phạt, Người La Mã cũng chọn nơi
nầy đóng đinh các tội phạm.. Golgotha cũng là
chặng đường cuối cùng khổ giá, trên
đường đến núi sọ có Mẹ Maria cùng các
môn đệ yêu quý, bà thiếu phụ Veronica dâng khăn mới lau mặt Chúa,
(chiếc khăn đó in rõ thánh nhan Ngài, khăn đó còn
lưu lại trong bảo tàng viện ở Roma ?) Chúa vác
thánh giá tới đỉnh đồi, trời đã
đúng ngọ, Chúa bị đóng đinh với bản án „Jesus vua Do Thái „..Mẹ Maria
buồn rầu đau khổ chứng kiến cảnh
đánh đập và đóng đinh, trái tim mẹ đau
nhói khi nhìn những giọt máu trên thánh giá rơi xuống..
Lời
nói cuối cùng của Chúa „Lạy
cha, Con phó linh hồn con trong tay Cha“ Rồi ngài trút hơi thở lúc trời đã
về chiều..Theo luật La Mã xác của tội phạm
không được chôn cất để ở pháp trường
cho thú dữ chim ăn. Ông Giuse đã xin án táng hình hài Chúa Jesus
trước ngày lễ Vượt Qua theo phong tục
người Do Thái cấm để xác chết trên thánh
giá.. Nên được chấp nhận trước khi
hạ thánh giá, những người lính canh pháp
trường lấy dáo dâm vào xác cho tới tim Chúa. Ông
Juse, mẹ Maria và các môn
đệ đã mai táng Chúa trong một hang đá, ngoài có
tảng đá lớn lấp và gắn kín sau khi mai táng, quân
lính canh giữ 3 ngày…(hình trong film Passion of the Christ
2004 đã diễn lại
cuộc khổ nạn của Chúa )
Ba
ngày đã qua, sáng sớm còn đọng những giọt
sương mai lóng lánh dưới ánh mặt trời mùa xuân
bừng dậy, bà Magdala người được Chúa
cứu khỏi bệnh tâm thần, đi thăm mộ Chúa
để biểu lộ lòng nhớ ơn và phát hiện
tảng đá lấp mộ Chúa đã không còn nguyên như cũ, bà nghĩ ai đó
đem xác Chúa đi. Bà tìm gặp Petrus và Gioan và mong muốn
các ông sớm tìm ra ai lấy xác Chúa để đâu. Maria
von Magdala chưa hiểu đàng sau tảng đá
được lăn ra kia ẩn chứa một mầu
nhiệm sự sống lại. Vì thế, bà cùng với hai
môn đệ vội vã chạy đi kiếm tìm…
Ông Gioan chạy
đến mộ trước bởi sức trai trẻ,
môn đệ Chúa thấy những gì Maria von Magdala báo tin, ông
còn phát hiện thêm những hiện tượng bất
thường, những băng vải còn đó chưa
hẳn xác thầy đã bị đánh cắp. Sau đó
không lâu, Petrus phát hiện các băng vải, khăn che
đầu được xếp lại gọn gàng.
Những hiện tượng này là những lý chứng có
thể trả lời cho những nghi ngờ của Maria,
nếu có âm mưu trộm xác, kẻ trộm sẽ lợi
dụng thời khắc lính canh thiếp ngủ- rất
ngắn ngủi, thì không thể nào thoải mái sắp
xếp các băng vải liệm cách gọn gàng như
thế được, những bằng chứng về
sự Phục sinh của Chúa, nhưng nó lại là những
dấu chỉ chứa đựng sự nhiệm mầu.
Petrus nhìn thấy tất cả nhưng không bình
luận. Petrus cẩn trọng và dè dặt trước
hiện tượng nầy phải có thái độ cẩn
trọng trong mọi hoạt động; nhưng mặt
khác, dựa vào kinh thánh, chúng ta biết lý do Petrus không bình
phẩm là vì ông chưa hiểu “theo
Kinh thánh, Đức Jesus phải chỗi dậy từ cõi
chết”. Đức tin và sự cảm nghiệm này
một phần xuất phát từ trong cách quan sát và phân tích
vấn đề, Gioan đã thâu gom những hiện
tượng hữu hình, ông lượng định vấn
đề để rồi đưa đến kết
luận một cách khoa học. Niềm tin đó dựa trên
sự soi sáng của lý trí và tình yêu, xác của Thầy
chả có ai lấy đi cả. Cái chết đã thất
bại. Nó đã bị ánh sáng Phục sinh tướt
đoạt. Niềm tin ban sơ này của ông sẽ
dần dần được chính Đấng Phục sinh
và Chúa Thánh Thần củng cố và hoàn thiện.
Bà Magdala khóc
trong mồ, qua nước mắt bà thấy hai
người ngồi trên phiến đá chổ để
xác Chúa, bà chưa biết đó là hai Thiên Thần và họ
đã hỏi bà „ tại sao bà
khóc ?“
Bà thưa „vì người ta đã lấy
mất xác của Thầy tôi, và không biết họ
để đâu?“ nói xong bà
nhìn lại phiá sau thấy Chúa đứng, nhưng bà
không biết, Chúa hỏi bà : „ tại
sao khóc và tìm ai ? „
Bà Magdala tưởng
đó là người coi vườn của ông Giuse nên
thưa „ thưa ông nếu ông
đã cất xác của Ngài cho tôi biết để tôi chôn
cất. Chúa Jesus đã gọi tên bà thân mật :“Maria
Magdala „ nghe giọng quen thuộc lập tức nhận ra
Chúa và bà toan giơ tay ôm chân Chúa nhưng Chúa đã phán :
-Đừng đụng đến Ta, vì Ta chưa lên
cùng Cha Ta , con hãy về bảo các anh em Ta thay Ta, Ta sẽ lên cùng Cha Ta và Cha cùng các con, cùng
Chúa Ta và Chúa các con. Ruehre mich nicht an! Denn ich bin noch nicht
aufgefahren zum vater. Gehe aber hin zu meinen Bruedern und sage ihnen ich
fahre auf zu meinem Vater und zu eurem Vater, zu meinem Gott und zu eurem Gott.
Nói xong Chúa biến
mất bà Magdala vui mừng
chạy về báo tin cho các môn đệ biết Chúa đã
phục sinh, nhưng họ không tin và cho là bà nói sảng,
ngoại trừ Petrus và Gioan
đã tin……..
Mừng lễ Chúa
Phục sinh để nhắc nhớ chúng ta thêm niềm
tin. Thánh Phaolô đã nói nếu Chúa không phục sinh, thì
lời rao giảng của chúng tôi trống rỗng và
cả niềm tin của anh em cũng trống rỗng” (1
Cr 15, 14) Chúa Nhật Phục Sinh là một ngày vui bởi vì
sáng sớm Chúa nhật, các tông đồ tới mồ
chôn Chúa và thấy hòn đá chắn bị dời đi và
mồ trống rỗng. Chúa Jésus đã sống lại.
Theo tài liệu các
đạo trưởng người Do Thái muốn giết
Chúa. Tổng trấn Philato thất vọng truyền
lấy nước rửa tay và nói „ta sạch tội về máu người đạo
đức này“ Nhưng người Do Thái đã minh
định rằng .“ chẳng việc gì Quan cứ yên tâm, Sau
nầy máu nó có đổ trên đầu chúng tôi và con cháu
chúng tôi chúng tôi cam chịu..“ Nhìn lại lịch sử
người Do Thái đã mất nước lang thang xứ
người, hơn 6
triệu người vô tội đã bị Hitler ra lệnh
tàn sát thời đệ
Nhị Thế chiến (1939-1945) và ngày nay chiến tranh và
khủng bố, máu con cháu người Do Thái vẫn còn
tiếp tục đổ ở Trung Đông.
Suy niệm lời thánh kinh, Chúa chịu chết vì
tội của nhân loại để bản án tội
lỗi được thi hành, nhưng Chúa cũng đã
sống lại trong vinh quang tội lỗi đã bị
đánh bại qua cái chết và sự Phục sinh. Chúa Jesus tha thứ cho những
kẻ gây đau khổ và kết án tử cho Ngài. "Lạy Cha, xin tha cho họ vì
họ không biết việc họ làm" (Luca 23, 34).
Đó là tấm lòng bác ái, cao thượng nhất trên cõi
đời nầy. Nhờ đó, nhân loại không còn bị
ràng buộc trong tội lỗi.
Lễ Phục sinh là biểu tượng niềm hy
vọng của con người trong cuộc sống thế
gian phải chiến đấu với nghèo đói, bất
công và thù hận mang lại tốt đẹp hơn
bớt khổ đau, luôn thể hiện lòng từ bi bác
ái. Để chúng ta cũng được dự phần
vào sự Phục Sinh và Sự Sống đời sau…
"Lạy
Chúa Kitô là Ðấng cứu độ chúng con, tất cả
niềm hy vọng chúng con đặt nơi Chúa! Qua Phục
Sinh của Chúa, dẫn đưa chúng con khỏi tội lỗi
và sợ hãi. Biển đổi gánh sầu thương
chúng con thành niềm vui..“.
Munich mùa Phục Sinh 1010

Tài liệu tham khảo
Ostergeschichte-
Quelle Johannes Ver 20 & 21
Nach den
Evangelisten Johannes
Universal Lexion
Faktum
Cuộc
đời Chúa Cứu Thế của tác giả J. Lam Quang Trọng
Hình trên Internet
và Wikipedia