SAU
NGÀY 30-4-1975
Trần Gia Phụng
Sau
ngày 30-4-1975 Bắc Việt Nam (NVN) chủ trương tiêu
diệt triệt để tiềm lực NVN về nhân lực,
về kinh tế và về văn hóa nhằm củng cố
việc cưỡng chiếm Nam Việt Nam (NVN) và chận
đứng Việt Nam Cộng Ḥa (VNCH) có thể hồi sinh
ở NVN.
1.- TIÊU DIỆT NHÂN LỰC VNCH
Trước khi tấn công Sài G̣n,
Ban Bí thư Trung ương đảng Lao Động (đảng
CS) từ Hà Nội đưa ra chỉ thị số
218/CT-TW ngày 18-4-1975, quy định chính sách đối với
công chức và sĩ quan VNCH bị bắt như sau: “Đối
với sĩ quan, tất cả đều phải tập
trung giam giữ quản lư, giáo dục và lao động; sau
nầy tùy sự tiến bộ của từng tên sẽ
phân loại và sẽ có chính sách giải quyết cụ thể. Những người có chuyên môn kỹ
thuật [kể cả lính và sĩ quan] mà ta cần th́ có thể dùng vào từng việc trong một
thời gian nhất định, nhưng phải cảnh
giác và phải quản lư chặt chẽ, sau nầy tùy theo
yêu cầu của ta và tùy theo sự tiến bộ của từng
người mà có thể tuyển dụng vào làm ở các
ngành ngoài quân đội. Đối
với những phần tử ác ôn, t́nh báo, an ninh quân đội,
sĩ quan tâm lư, b́nh định chiêu hồi, đầu sỏ
đảng phái phản động trong quân đội, th́
bất kể là lính, hạ sĩ quan hay sĩ quan, đều
phải tập trung cải tạo dài hạn, giam giữ
riêng ở nơi an toàn và quản lư chặt chẽ.” (Huy Đức, Bên thắng cuộc, I: Giải phóng, Los Angeles: Osin
Book, 2012, tr. 39.)
Sau ngày 30-4-1975, nhà cầm quyền CS
kêu gọi sĩ quan VNCH từ cấp thiếu úy trở
lên, công chức cao cấp, và cán bộ chuyên viên VNCH ở
các thành phố và các tỉnh thành từ Quảng Trị vào
đến Cà Mau, tŕnh diện và chuẩn bị lương
thực, để học tập chính sách của “chính phủ
cách mạng” trong ba ngày, hay một tuần hay một tháng
tùy cấp bậc và tùy địa phương. Khi đại đa số sĩ
quan, công chức VNCH tŕnh diện (c̣n có một thiểu số
người bỏ trốn), th́ tất cả bị
đưa đi giam giữ trong các trại tù gọi là trại
học tập cải tạo trên các vùng rừng thiêng nước
độc, không tuyên án và không thời hạn.
Theo bộ Encyclopedia of the Vietnam War, sau biến cố năm
1975, số lượng sĩ quan, công chức và cán bộ
VNCH bị bỏ tù khoảng hơn 1,000,000 người trên
tổng dân số NVN lúc đó khoảng 20 triệu người. Tất cả bị giam tại
trên 150 trại giam; theo đó, khoảng 500,000 được
thả về trong 3 tháng đầu; 200,000 bị giam từ
2 đến 4 năm; 250,000 bị giam ít nhất 5 năm, và
năm 1983 (tức sau 8 năm) c̣n khoảng 60,000 người
bị giữ lại.(Spencer C. Tucker, Encyclopedia of the Vietnam War, a
Political, Social, and Military History,
Vol. two, Santa Barbara, California: 1998, tr. 602.) Một tác giả trong nước
cho biết rằng: “Ở Sài
G̣n, 443,360 người ra tŕnh diện, trong đó có hai
mươi tám viên tướng, 362 đại tá, 1,806 trung
tá, 3,978 thiếu tá, 39,304 sĩ quan cấp úy, 35,564 cảnh
sát, 1,932 nhân viên t́nh báo các loại, 1,469 viên chức cao cấp
trong chính quyền, 9,306 người trong các đảng phái
được cách mạng coi là “phản động”. Chỉ 4,162 người
phải truy bắt trong đó có một viên tướng và
281 sĩ quan cấp tá.” (Huy Đức, sđd. tr. 37.)
Trong số trên 1,000,000 người
bị tù sau năm 1975, theo những cuộc nghiên cứu ở
Hoa Kỳ và Âu Châu, có khoảng 165,000 nạn nhân đă từ
trần trong các trại tù "cải tạo". (Anh Do
& Hieu Tran Phan, “Millions of lives changed forever with Saigon's fall”,
nhật báo Orange County Register,
Chủ Nhật, 29-4-2001, phụ trang đặc biệt về
ngày 30-4, tt. 2-3.)
2.- TIÊU DIỆT KINH TẾ VNCH
Song song với việc tiêu diệt
nhân lực VNCH, CS tiêu diệt luôn tiềm lực kinh tế
VNCH, để VNCH không thể hồi sinh. Đầu tiên, CS chiếm
ngay số vàng của VNCH ở trong và ngoài nước.
Ở trong nước, sau ngày 30-4-1975, từ đầu
tháng 5-1975, CS kiểm kê 16 tấn vàng trong Ngân hàng Quốc gia
ở Sài G̣n. (Google: Huỳnh Bửu Sơn “16 tấn vàng của
Việt Nam Cộng Ḥa”.) Lúc đó, CS tung tin
thất thiệt rằng tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu đă đem số vàng nầy ra nước
ngoài. Ở ngoài nước, trước
ngày 30-4-1975, VNCH kư gởi 5,7 tấn vàng tại
ngân hàng Bank fur
Internationnalen Zahlung Sausgleih ở Thụy
Sĩ. Số vàng được đưa qua Tiệp Khắc
(lúc đó c̣n CS), và CSVN nhờ Tiệp Khắc bán để
lấy ngoại tệ. (Wikipedia.)
Về mặt xă hội, CS áp dụng
kế hoạch kinh tế mới, nói là để phân phối
lại dân số sau chiến tranh, nhưng thực tế là
nhắm mục đích phân tán dân thành phố, buộc dân những
thành phố lớn, như Sài G̣n, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần
Thơ đi về nông thôn, để cướp nhà cửa
và tài sản của họ ở thành phố. Những gia đ́nh
có thân nhân bị bắt đi học tập cải tạo
phải đi kinh tế mới, th́ được hứa
hẹn thân nhân sẽ được sớm trở về
đoàn tụ gia đ́nh.
Những quân nhân, công chức, cán bộ chế độ
VNCH nếu được thả ra từ các trại tù cải
tạo, đều không được về ở các thành
phố đă sinh sống trước đây, mà phải đi
kinh tế mới. Những gia đ́nh tư sản bị kiểm kê,
dù là tư sản mại bản hay tư sản dân tộc,
đều phải đi kinh tế mới. Mục đích của
CS là trả thù, trù dập, cướp của, cướp
nhà.
Khi đến vùng kinh tế mới,
mỗi gia đ́nh (CS gọi là hộ khẩu) được
cấp 500m2 đất để sản xuất riêng. Ngoài ra, những người trong
độ tuổi lao động, không
đau ốm phải tham gia sản xuất trong hợp tác
xă, làm công tính điểm và được trả
lương theo số điểm. (Lâm Văn Bé, “Những biến động dân số
Việt Nam”, tạp chí Truyền
Thông, số 37-38, Montréal: 2010, tt. 132-133.)
Theo tài liệu trong nước: “Chỉ trong ṿng vài năm, chúng ta [nhà
cầm quyền CS] đă
đưa được 1,300,000 người từ các
nơi trong cả nước đến các vùng kinh tế mới
và đă khai hoang, phục hóa được ngót một triệu
hecta đất. Ủy ban nhân
dân thành phố Sài G̣n vạch kế hoạch đưa trên
trên một triệu đồng bào không trực tiếp lao động sản xuất đi xây dựng
vùng kinh tế mới. Hơn một
năm sau, đến tháng 6-1976, Sài G̣n đă tổ chức
cho gần 30 vạn dân đi các vùng kinh tế mới, lập
thành 94 xă, trong đó 82 xă ổn định về đất
canh tác và thổ cư.” (Lê Mậu Hăn, Trần Bá Đệ,
Nguyễn Văn Thư, Đại
cương lịch sử Việt Nam, tập III, Hà Nội:
Nxb. Giáo Dục, 2001, tr. 282.) Một thống kê khác cho thấy từ năm 1976
đến năm 2000 (25 năm), có 5 triệu người bị
cưỡng bách di dân đi vùng kinh tế mới. (Lâm
Văn Bé, bđd. tr. 134.)
Tuy nhiên, sau một thời gian ở
vùng kinh tế mới, nhiều người kiếm cách trở
về thành phố. Kế hoạch kinh tế mới không thành công,
ngoài việc nhà nước CS cướp nhà cửa, tài sản
các nạn nhân.
Ngày 10-9-1975, CS mở chiến dịch
đánh “tư sản mại bản” (comprador) đợt 1.
Theo CS, tư sản mại bản là những nhà đại
tư bản trước năm 1975, chuyên xuất nhập
cảng hoặc làm ăn buôn bán với người ngoại
quốc, mà CS tố cáo giới nầy đă dựa vào thế
lực nước ngoài để bóc lột dân chúng.
Ngày 22-9-1975, CS ra lệnh đổi
tiền, 500 đồng tiền VNCH đổi lấy 1
đồng tiền Ngân hàng Việt Nam tức loại tiền
mới của nhà cầm quyền CS. (Viện
Kinh tế - Viện Khoa học Xă hội Việt Nam, 45 năm kinh tế Việt Nam
(1945-1990), Hà Nội: Nxb. Khoa Học Xă Hội, 1990, tr. 237.)
Mỗi gia
đ́nh (hộ khẩu) được đổi tối
đa 200 đồng mới.
Tiền cũ c̣n dư phải gởi
vào ngân hàng, rút ra và đổi từ từ.
Đây là một biện pháp nhằm
cướp đoạt tài sản và làm nghèo dân chúng NVN.
Lúc đó, xuất hiện câu ca dao: “Năm đồng đổi lấy một xu,/ Người khôn đi học [tập], thằng ngu làm thầy.” [Cộng sản đổi
tiền lần thứ hai ngày 3-5-1978 và đổi tiền lần
thứ ba ngày 14-9-1985. (Viện
Kinh tế, sđd. tt. 237,
240.)]
Nhà nước CS mở chiến dịch
đánh tư sản mại bản đợt 2 bắt
đầu ngày 4-12-1975, nhắm vào những nhà tư sản
nhỏ hơn, nhưng vẫn c̣n giàu có. Vào đầu năm 1978, CS mở
chiến dịch đánh “tư sản dân tộc” do Đỗ
Mười cầm đầu, gọi là “công tư hợp
doanh”. Tư nhân phải đem
cơ sở sản xuất hay kinh doanh riêng của tư
nhân, vào hợp doanh với nhà nước. Tất cả doanh
gia đều phải vào công tư hợp doanh (CTHD) mới
được kinh doanh.
Nói là “công tư hợp doanh”,
nhưng nhà nước không bỏ vốn, chỉ đứng
ra quản lư, điều hành. Người chủ cũ (tư
nhân) sẽ là một thành viên và lănh lương theo quy định chức vụ hay cấp bậc. Nếu bị cất
chức, chủ cũ xem như mất trắng tài sản
của ḿnh. Dân chúng mỉa mai gọi CTHD là “Của Tôi Họ
Dành”.
Ở nông thôn th́ CS thực hiện
nền kinh tế chỉ huy nhanh chóng hơn, chủ
trương “ruộng đất
thuộc quyền sở hữu của toàn dân, nhưng do
nhà nước quản lư.” Tất cả ruộng đất
tư nhân đều bị quốc hữu hóa và nông dân,
điền chủ đều phải vào hợp tác xă nông
nghiệp hoàn toàn do cán bộ CS điều hành.
3.- TIÊU DIỆT VĂN HÓA MIỀN NAM
Chủ trương nhuộm đỏ
toàn dân NVN, CS buộc toàn dân học tập chủ nghĩa
CS. Cộng sản xóa bỏ
nền văn hóa, giáo dục VNCH, băi bỏ nền giáo dục
nhân bản, dân tộc và khai phóng ở miền Nam, thay bằng
nền giáo dục phục vụ chế độ và đảng
CS, nhằm đào tạo những con người hồng
hơn chuyên, mang tính đảng nhiều hơn chuyên môn, biết
vâng lời đảng CS hơn là biết suy nghĩ. Học sinh phải học thuộc
ḷng “Năm điều” do Hồ Chí Minh đề ra là: “Yêu tổ quốc, yêu đồng
bào. Học tập tốt, lao động
tốt. Đoàn kết tốt, kỷ luật
tốt. Giữ ǵn vệ sinh thật tốt.
Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm.” Không có điều nào dạy trẻ
em có hiếu với cha me, thương yêu anh chị em, lễ
độ, nhân ái và tín nghĩa với mọi người,
tức không dạy đức dục cho trẻ em, v́ CS chủ
trương vô gia đ́nh, vô tổ quốc. Vào năm cuối trung học, học
sinh phải học và thi tốt nghiệp môn chủ
nghĩa CS, lư thuyết Mác-Lê, lịch sử đảng CS
Việt và CS thế giới. Sau khi tốt nghiệp, môn học nầy chẳng
ứng dụng được ǵ vào đời, nên học
sinh không thích học, thầy giáo không thích dạy.
Dưới chế độ CS, không
có tự do ngôn luận. Cộng sản kiểm soát toàn bộ
các sinh hoạt văn hóa, điều khiển chặt chẽ
ngành truyền thông,
Báo chí đều do cơ quan đảng xuất
bản. Cộng sản đốt
hết sách báo NVN mà CS cho là đồi trụy, kiểm duyệt
kỹ càng các tác phẩm nghiên cứu, văn chương,
ca nhạc…
Về tôn giáo, CS chủ
trương vô tôn giáo, và CS muốn tiêu diệt các tôn giáo nhưng
không nổi, nên CS t́m cách kiểm soát, ngăn chận các sinh
hoạt tôn giáo, hoạt động các tu sĩ, và lập ra
các giáo hội quốc doanh do CS điều khiển, gây chia
rẽ trong nội bộ các tôn giáo. Cộng sản không thể lập giáo hội Công
giáo quốc doanh, cũng không ngăn chận được
hoạt động các giáo sĩ, nên CS bí mật t́m cách phá
hoại, khủng bố, và mua chuộc một số giáo
sĩ. Với các hệ phái Tin
Lành, các hội thánh riêng lẻ, độc lập, tự trị,
hoạt động nhiều ở miền núi và cao nguyên vắng
vẻ, nên CS theo dơi, hạn chế, uy hiếp
hay bắt giam các giáo sĩ.
KẾT LUẬN
Đảng
CS cưỡng chiếm được NVN, nhưng CS không chinh
phục được ḷng dân. Chủ
trương tiêu diệt tiềm lực VNCH sau ngày 30-4-1975 nói
chung là thất bại. Đúng như câu
đồng dao dân chúng truyền tụng “Cộng Ḥa chôn mà chưa chết”. Ngoại trừ việc CS chận
đứng các lực lượng đối kháng, giữ
vững chế độ CS, c̣n lại CS đều thay
đổi theo VNCH. Đảng
CS chỉ c̣n giữ cơ cấu độc tài đảng
trị để duy tŕ quyền lực. Cũng đúng
như dân chúng nói “Cộng sản
chết mà chưa chôn”.
Trong
khi đó, các trại tù cải tạo của CS không cải
tạo được ai, mà chỉ gây thêm hận thù.
Ra khỏi tù, ai cũng t́m cách vượt biên hoặc theo các chương tŕnh ODP hay HO ra nước
ngoài. Ra khỏi
nước, người Việt tập hop thành những cộng
đồng chống cộng.
Ở trong nước, dầu bị CS kềm kẹp
khắc nghiệt, vẫn xuất hiện nhiều nhà tranh
đấu, đ̣i tự do dân chủ, chống CSVN, và chống
mưu đồ xâm lăng của Tàu cộng.
Tại
phiên ṭa sơ thẩm ngày 19-9-2018 ở Ḥa B́nh, tù nhân
lương tâm Đào Quang Thực tuyên bố lời cuối
cùng sau khi bị kết án 14 năm tù giam, 5 năm quản
chế: “Tôi đấu tranh cho
tự do dân chủ và quyền con người cho đất
nước tôi. Tôi
đấu tranh cho đất nước tôi được
sống trong môi trường trong lành. Tôi không ân hận.” (http//www.facebook.com/VOATiengViet) (Đài phát thanh VOA ngày 19-9-2018).
Về
kinh tế, chính sách kinh tế chỉ huy của CS không kích
thích nổi sự phát triển kinh tế, nên đất
nước suy sụp. Lo sợ dân chúng nổi dậy, năm
1986, CS bắt đầu “đổi mới” kinh tế, băi
bỏ kinh tế chỉ huy, trở lại nền kinh tế
thị trường, nay do CS kiểm soát, gọi là kinh tế
thị trường theo định hướng XHCN. Kinh tế chỉ huy
là nền tảng của chủ nghĩa CS. Băi bỏ kinh tế
chỉ huy có nghĩa là chủ nghĩa CS hoàn toàn thất bại.
Về văn hóa, trước
30-4-1975, NVN vốn chủ trương văn hóa dân tộc
cổ truyền, mở cửa đón nhận tinh hoa văn
hóa thế giới. Sau năm 1975, CS truyền bá văn hóa Mac-xít,
nhưng vô hiệu. Văn hóa cổ truyền vả tinh thần VNCH vẫn
tiềm tàng trong dân chúng.
Người BVN, kể cả toàn bộ cán bộ CS
cao cấp, chuyển đổi hoàn toàn theo
nếp sống văn minh và văn hóa NVN, ngoại trừ
duy tŕ tổ chức độc tài CS.
Trong chiến tranh, CS đưa ra
chiêu bài chống Mỹ cứu nước. Nay CSVN lại rước
Mỹ giúp nước. Ngày 3-2-1994, Hoa Kỳ bỏ cấm vận Việt
Nam và b́nh thường hóa ngoại giao ngày 11-7-1995. Từ đó, các nước tư
bản bắt đầu vào Việt Nam đầu tư. Tuy nhiên, do
CS không có cán bộ đủ năng lực quản lư nền
kinh tế thị trường, nên tham nhũng tràn lan khắp nước.
Trong
thời gian nầy, ngành INTERNET xuất hiện đúng lúc,
làm bộc phát thông tin trên mạng lưới toàn cầu.
Những bài viết của người Việt trong
và ngoài nước phô bày thực trạng độc tài
đảng trị, lệ thuộc Tàu cộng, kinh tế yếu
kém, bóc lột, tham nhũng, tệ nạn xă hội … đều
được đưa lên internet.
Để duy tŕ quyền lực,
CS duy tŕ độc đảng, độc quyền chính trị,
văn hóa, truyền thông, với nền giáo dục phục
vụ CS, và chỉ nới lỏng dần dần những
luật lệ không quan trọng.
Trộm cướp, đĩ điếm
bộc phát, xă hội xáo trộn. Dân chúng không c̣n sợ
nhà nước CS như trước, đua nhau khiếu kiện
trên toàn quốc, và tham gia những cuộc biểu t́nh chống
Trung Cộng đe dọa Biển Đông.
Nhà cầm quyền CS đàn áp biểu
t́nh, đàn áp tinh thần yêu nước của dân chúng, làm
lộ rơ thêm bộ mặt phản quốc của CS.
Trong
lúc đang khó khăn, th́ thiên tai ập
đến. Đồng bằng sông Cửu
Long từ từ nhiễm mặn, khô cằn nứt nẻ.
Vựa lúa của dân tộc bị đe dọa.
Ngoài nước, cuộc thương chiến Hoa Kỳ-Trung
Cộng từ 2018; dịch siêu vi khuẩn Vũ Hán (Trung Cộng)
bùng phát đầu 2020, ảnh hưởng đến Việt
Nam, v́ kinh tế Việt Nam gắn liền với kinh tế
Trung Cộng. Nếu t́nh trạng nầy kéo dài, Việt Nam
có thể sẽ bị khủng hoảng trầm trọng.
Ngày
nay, sau 45 năm thống trị Việt Nam, dầu CS tuyên
truyền thế nào đi nữa, th́ dân chúng cũng không c̣n
tin tưởng CS. Kinh tế
suy thoái, ngân quỹ cạn kiệt, nợ nần tràn ngập
đến hồi phá sản, đàn anh Tàu Cộng liểng
xiểng, ghế dựa của CSVN lung lay.
Trước
khi Liên Xô sụp đổ năm 1991, CSVN đă nhảy
trước tại hội nghị Thành Đô tháng 9-1990, bỏ
Liên Xô chạy theo Trung Cộng để
tự cứu. Ngày
nay, Trung Cộng đang khó khăn lụn bại, và lâm nguy,
không c̣n dựa hơi được nữa, là cơ hội
để CSVN nhanh chân thoát Trung, nhảy thêm bước nữa.
Có
hai tấm gương trước mắt: 1) Từ năm
1990, các nước Đông Âu vĩnh viễn từ bỏ
các chế độ CS. Chỉ sau vài thập kỷ, các nước
Đông Âu hầu như bắt kịp các nước Âu Mỹ. 2) Hiện
nay, trong nước, sinh viên, học sinh Việt Nam du học
nước ngoài, đều chọn du học các nước
Âu Mỹ. Trên 38,000 du học sinh
Hoa Kỳ. Đó
là chưa kể du học Anh, Pháp, Nhật, Úc. Chỉ một số
rất ít được học bỗng mới qua Trung Cộng. Tuổi trẻ rất sáng suốt. Chuyến tàu đổi mới do
sinh viên cầm lái đă khởi động. Các toa dân chúng đă
đầy ắp. Chỉ toa dành cho lănh đạo CS c̣n trống. Thiên thời đă sẵn sàng. Cơ hội không phải
dễ có.
Vậy
lănh đạo CSVN hăy can đảm nhanh chân theo
con em ḿnh kẻo trễ. C̣n hơn là lú lẫn ôm măi cái chủ nghĩa CS lỗi
thời, giữ chút hư danh và quyền lợi, cản
đường dân tộc, lại lệ thuộc bắc
phương, bị bắt nạt trên Biển Đông. Lâu lâu, Trung Cộng ngứa tay tát tai vài cái giải trí. Thật nhục nhă mà vẫn ngậm
miệng ăn tiền. Rồi sẽ có lúc không tránh khỏi
số phận Nicolae Ceausescu (Romania) chập chờn đâu
đó!
TRẦN
GIA PHỤNG
(Texas,
tháng 4-2020)