CHÍ THÀNH THÔNG THÁNH
Cuộc đời
ngoảnh lại vắng không,
Giang sơn nào khóc anh
hùng được đâu;
Cường
quyền dậm đạp mái đầu,
Văn chương
tám vế say câu mơ màng,
Tháng ngày uất
hận đành cam,
Sổ lồng tháo
cũi biết làm sao đây ?
Những ai tâm
huyết vơi đầy,
Dốc lòng văn
đạo, thơ này thấu cho
CẢM TÁC
Làm trai quyết gánh
gánh gian nan,
Dám nại xa xôi
bỏ giữa đàng,
Coi lại chỉ còn
ba tấc lưỡi,
Trải qua đã nát
mấy buồng gan,
Tếch dương
Ấn Ðộ nhì thiên hạ,
Lên
tháp Ba Lê nhất thế gian.
Mượn bút
Tương Như đề mấy chữ
Thân
này xin phó với giang san.
ÐẬP ÐÁ CÔN LÔN
I
Làm trai đứng
giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm
cho lỡ núi non,
Xách búa đánh tan
năm bảy đống,
Ra tay
đập bể mấy trăm hòn.
Tháng ngày bao quản
thân sành sỏi,
Mưa
nắng chi sờn dạ sắt son.
Những kẻ vá
trời khi lỡ bước,
Gian nan
nào sá sự cỏn con.
II
Biển dâu dời
đổi mấy thu đông,
Cụm núi Côn Lôn
đứng vững trồng,
Bốn mặt dày vò
oai sóng gió,
Một mình che
chở tội non sông .
Cỏ hoa đất
nảy cây trắm thức,
Rồng cá trời
riêng biển một vùng .
Nước biếc
non xanh thương chăng nhẽ !
Gian nan xin hộ khách
anh hùng .
Bị giam ở nhà giam Phủ
Thừa ít lâu, Phan Chu Trinh bị đày đi Côn đảo . Lúc đi ngang qua cửa
Thượng Tứ, Phan Chu Trinh đã ngâm lên bốn câu
thơ sau :
Nguyên
văn chữ Hán
Luy tuy thiết
tỏa xuất đô môn,
Khẳng khái bi ca
thiệt thượng tồn
Quốc thổ
trầm luân dân tộc lụy
Nam
nhi hà sự phạ Côn Lôn
(Bản dịch của Phan Khôi)
Mang xiềng nhẹ
bước khỏi đô môn,
Hăng hái hò reo
lưỡi vẫn còn,
Ðất nước
hãm chìm dân tộc héo,
Làm
trai đâu xá thứ Côn Lôn.
KHUYÊN QUỐC DÂN TẤN THỦ
Gió tố mưa dông
đổ lộn phèo,
Trời già chi nỡ
thắt khi eo,
Ngẫm mùi trung
hiếu nên cay đắng,
Dở túi văn
chương đã mốc meo,
Bợm điếm lăng xăng lo chợ cháy,
Con hoang lơ
lửng khóc cha nghèo.
Non cao bể rộng
mênh mông cả,
Mặc
sức bơi chơi mặc sức trèo.
TRONG NGỤC QUỐC SỰ PHẠM SANTÉ
I
Ba năm trải khắp
đất Ba-Ri
Lao ngục chưa hề
biết tí ti,
Sự khiến xui
nên hay buộc tới,
Sống
thừa còn có oán hờn chi.
Mỗi ngày đúng
bữa ba lần xúp,
Hai
đứa chia nhau một bánh mì.
Tám kiếp trâu già chi
sợ ách,
Ngồi buồn
bắt vế cứ ngâm thi .
II
Từ ấy giam luôn
mấy tháng tròn,
Nhờ trời
ngủ kỹ lại ăn ngon.
Ngày ba lần xực
coi còn đói,
Ðêm
chín giờ chơi ngáy vẫn giòn.
Mỗi bữa
nửa giờ ra hóng mát,
Mỗi
tuần hai bận xuống thăm con.
Vui buồn mình
biết lòng mình vậy,
Miễn trả cho
rồi nợ nước non.
QUÂN TRỊ VÀ DÂN TRỊ
So sánh hai cái chủ nghĩa quân
trị và dân trị, thì ta thấy chủ nghĩa dân
trị hay hơn cái chủ nghĩa quân trị nhiều
lắm. Lấy theo ý riêng của một người hay là của
một triều đình mà lên trị nước, thì cái
nước ấy không khác nào một đàn dê,
được no ấm vui vẻ hay là phải đói rét
khổ sở chỉ tùy theo lòng của người chăn
. Còn như theo cái chu? nghĩa
dân trị thì tự quốc dân lập ra hiến pháp,
luật lệ, đặt ra cơ quan để lo việc
chung cả nước, lòng quốc dân muốn thế nào
thì làm thế ấy . Dù không có người ta giỏi làm cho
hay lắm, cũng không đến nổi phải đè
đầu khốn nạn làm tôi một nhà một họ nào .
Xét lịch sử xưa, dân nào
khôn ngoan biết lo tự cường tự lập, mua
lấy sự ích lợi chung của mình thì càng ngày càng
bước tới con đường vui vẻ
. Còn dân thì ngu dại, cứ ngồi yên mà nhờ
trời, mà mong đợi trông cậy ở vua ở quan,
giao phó tất cả quyền lợi của mình vào trong tay
một người, hay một chính phủ muốn làm
sao thì làm, mà mình không hành động, không bàn luận, không
kiểm xét, thì dân ấy phải khốn khổ mọi
đường.
Anh
chị em đồng bào ta đã hiểu thấu các lẽ,
thì phải mau mau góp sức lo toan việc nước
mới mong có ngày cất đầu lên nổi.
BỨC THƯ GỬI CHO VUA KHẢI ÐỊNH
(Trích bản
dịch của Ô. Nguyễn Kim Ðính)
... Trinh này viết đến
đây thì bút đã cùn rồi, tay đã
mõi rồi, giấy đã hết rồi, mực đã
cạn rồi, mà còn muốn nói chưa dứt lời.
Những điều của Trinh bày tỏ ra đó,
chẳng phải công kích riêng một mình bệ hạ
đâu chính là công kích những bậc làm vua hôn muội
đó. Ông Mạnh Tử có nói rằng: Tôi có muốn nói
nhiều đâu, cực chẳng đã nên phải nói đó thôi ! Ấy là cái tâm sự
của Trinh này cũng như thế đó. Bệ
hạ nếu còn một chút thiên lương mà biết
hối ngộ ra, tin rằng quân quyền không có thể
cậy được, dân quyền không thể đoạt
được, mau mau quay đầu lại mà thoái vị
đi, đem chính quyền trao trả cho quốc dân,
để quốc dân được trực tiếp ngay
với chính phu? Pháp mà làm công việc để mưu
sự lợi ích sau này , vậy thì may ra quốc dân còn
thương cái lòng mà tha cái tội đi, ấy là cái
kế sách của bệ hạ ngày nay, không còn gì hơn
nữa. Chứ ví bằng thói cũ không chừa, choán cái
ngôi chí tôn, ra cái chuyên chế, hãm chìm quốc dân xuống
vực sâu, hang thẳm kiếp kiếp đời
đời, thì Trinh này sẽ bố cáo với quốc dân và
thương thuyết với chính phủ Pháp, tính
mạng hai mươi lăm triệu đồng bào
Việt Nam, cùng với bệ hạ tuyên chuyến một
trận kịch liệt, hễ cái ngày nào đầu Trinh
nầy rớt xuống đất tức là cái ngày quân
quyền của Bệ hạ chìm xuống đáy sâu,
kẻo lại trách rằng Trinh không bảo trước.
Bức thư
này một bản viết bằng Hán văn gửi cho
bệ hạ, ngoài ra còn dịch ra Pháp văn để
đăng lên các báo, và phát đơn ra để yêu
cầu người Pháp công đoán.
Một là vì Trinh này đối
cùng bệ hạ đã đoạn tuyệt hẳn, không còn
một chút quan hệ gì, chỉ đứng vào cái
địa vị đối đãi mà thôi, cho nên bức
thư này không phải dâng lên
cho bệ hạ, mà chính là gửi
cho bệ hạ, hai chữ bệ hạ mà tôi dùng
đây, chẳng qua là cái tiếng xưng hô đã quen trong
Hán văn đó mà thôi.
Một là Trinh, vì là
người theo Khổng giáo nên không theo cái lễ phép chuyên
chế đặt ra từ đời Tần Thủy Hoàng
trở về sau, cái tên húy của Vua không dám nói động
đến; nước Tàu nước Nhật bỏ đã
lâu rồi chỉ còn nước Nam đó thôi, ngày nay Trinh
này đề thư cứ gửi ngay cho ông Bửu Ðạo là cái tên húy
của bệ hạ, để tỏ ý phản
đối .