Ma
Lực Của Pleiku.
Lời
mở đầu của người viết.
Đối
với tôi, Pleiku là địa danh đã cho tôi cơ hội để thể hiện cung cách phục vụ
của một không quân VNCH. Tôi biết Biệt đội Quan sát Pleiku từ năm 1965 khi
vừa từ Đà Nẵng thuyên chuyển về Nha Trang và biết phái lên trên đó.
Pleiku
trở thành máu thịt của tôi từ cuối năm 1971, khi tôi tình nguyện lên trấn
thủ Phố Núi cao, phố núi đầy sương cho đến ngày tàn cuộc chiến.
Bài
viết nầy nhằm hổ trợ cho ngày Đại Hội Pleiku Hải Ngoại Lần Thứ II vào tháng
3 năm 2013 tại Trung Cali.
Đa
tạ. KQ Võ Ý
Quý
nam phụ lão ấu, quý tài tử giai nhân, từ muôn phương quy tụ về Hội Ngộ Phố
Núi Lần II, là về với Núi, về với Pleiku. Sự trở về là một thôi thúc sâu
kín trong lòng, quý vị đã đáp ứng lời
mời của Ban Tổ Chức, đã biến giấc Mơ thành sự Thực.
Từ
khi cắt đi núm ruột cha ông, từ bỏ Pleiku di tản qua tỉnh lộ 7B kinh hoàng
rạng sáng ngày 16 tháng 3 năm 1975 đến nay đã 38 năm. 38 năm qua mà giấc mơ
về Phố Núi vẫn âm ỉ trong lòng. Vậy, Pleiku là cái gì mà thôi thúc lòng người
đến như vậy? Có phải Pleiku là địa đàng tráng lệ hay Pleiku là bùa ngãi hoặc
ma túy cần sa?
Ngày
nay, khi nói đến sự hấp dẫn của bất cứ một địa danh nào, người ta thường
dùng mấy từ đi về, khó dễ, trai gái
và vợ con để nói về sức hấp dẫn của địa danh ấy, Vị dụ như Pleiku
đi dễ khó về/ Trai đi có vợ gái về có con. Ví von như vậy e chưa thuyết
phục, vì chưa nói lên được cái quyến rũ đầy ma lực và huyền bí của Pleiku.
Sự
thực, Pleiku là cao nguyên phía tây bắc của Việt Nam ở độ cao từ 600 đến
800 mét, bắc giáp Kontum, nam giáp Daklak, tây giáp Campuchia, đông giáp ba
tỉnh Quãng ngãi, Bình Định và Phú Yên. Khí hậu nhiệt đới cao nguyên, chia
hai mùa, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa nắng từ tháng 12 đến tháng 4.
Nhiệt độ trung bình 21 đến 25 độ C, dân số 237.000 người (2008) bao gồm 28
dân tộc, trong đó người kinh chiếm 87%, các dân tộc khác như Gia Rai,
Bàna... chiếm 13%.
Cao
nguyên Trung phần (trong đó có Pleiku) hội đủ các yếu tố thuận lợi về quân
sự và kinh tế. Nhiều nhà quân sự vẫn cho Pleiku là mái nhà của Đông Dương.
Pleiku lại có ưu thế về thổ nhưỡng
và thời tiết, thuận lợi cho phát triển các loại cây công nghiệp như cao su,
cà phê, hồ tiêu, cây lâm sản đa dạng.
Chính
thiên nhiên, sông núi, đất đai và khí hậu nắng bụi mưa sình và mù sương giá
lạnh đã bồi đắp nên con người Pleiku có một tính cách riêng: tính cách
Pleiku là, hồn nhiên, đôn hậu, thánh thiện và bình dị:
Rất
nôn nóng đợi ngày về với núi/ Nghe vi vu tiếng gió khe rừng
Mọi
thứ quanh ta đều thánh thiện/ Và thánh thần bỗng hết thiêng liêng
(Dứt
Cơn Mơ Ta Về Với Núi – Cao Thoại Châu)
Một
đóa dã quỳ màu vàng chập chờn trên núi hay ngã nghiêng trên con lộ quê; một
chút lửa hồng bếp cũ trong nhà sàn, ngoài nương rẫy, gợi nhớ cái lạnh thiên
cổ của Phố Núi, có khi cũng là một thôi thúc quay về:
Nghe
lòng mình cùng phố núi chao nghiêng/ Nai gõ móng trên thềm đá cũ
Nghe
cả mừng vui buồn tủi/ Dã quỳ ơi, anh đã quay về...
(Dă
Quỳ Rực Rỡ Dấu Chân Thơm – Cao Thoại Châu)
Phố
núi kia ơi, một đời phố lạnh/ Lạnh hoa vàng, núi đỏ, thác đèo cao
Lạnh
hàng cây, tửu quán, lạnh gần nhau/ Lạnh thiên cổ, lạnh vào tim máu cạn
(Hoa
Quỳ Vàng Lạnh Pleiku – Nguyễn Bắc Sơn).
Sương
mù, buốt lạnh và nắng bụi mưa sình cũng là những nét tiêu biểu khắc nghiệt
của Pleiku mà khi đi xa, người dân Phố Núi thường hay nhớ về:
Bây
giờ ta ở Pleiku/ Thấy xanh đó núi thấy mù nầy sương
Núi
xanh còn ngỡ phố phường/ Mù sương ngan ngát dễ thường dễ khuây
(Ở
Pleiku – Võ Ý)
Cũng
có khi người Pleiku nhớ mông lung giọt cà phê Dinh Điền một sáng chủ nhật
mưa bay, nhớ cái cay hít hà xé miệng của tô bún bò nhà xác, nhớ món hủ tiếu
khô đậm đà chơn chất, nhớ những hột bắp dẻo mà thơm của em Pleiku má đỏ môi
hồng...Nhưng trong các đặc sản của Phố Núi, quý bà nội trợ làm sao mà quên
được món măng le đặc sản Pleiku đã đi vào ca dao:
Ai
về nhắn với nẫu nguồn
Măng
le gởi xuống, cá chuồn gởi lên
Một
điều hiển nhiên là khi yêu ai , người ta yêu cả đường đi lối về
(1) của người ấy. Vì người yêu của tôi ở Pleiku, nên tôi yêu Phố
Núi, yêu sân trường của nàng và cả nắng bụi mưa sình nơi thành phố nàng trú
ngụ.
Bài
hát Còn Chút Gì Để Nhớ của Phạm Duy phổ thơ Vũ Hữu Định bỗng dưng trở thành
lời tỏ tình rất ý nhị (và hiệu quả) mà phái mày râu đã vô tình chiếm đoạt.
Từ xa xưa, Pleiku đã đi vào văn học sử. Rất nhiều bài thơ bài văn nói về
Pleiku, trước cũng như sau 1975.
Ngoài
Phạm Duy với ca khúc để đời Còn Chút Gì Để Nhớ, cũng còn rất nhiều nhạc sĩ
diễn đạt những rung cảm của mình về Pleiku như Nhật Ngân (Lên Núi Tỏ Tình),
Phan Ni Tấn (Đứa Con Mê Núi, Pleiku Em Ở Núi Rừng), Hoàng Khai Nhan (Phố
Xưa), Trần Duy Đúc (Khúc Mưa Sầu), Đăng Phương (Cao Nguyên Tình Khúc), Nguyễn
Nam Thư (Về Rừng Núi), Nguyễn Đức Tri Tâm (Áo Trắng Ngày Xưa), Dương Thượng
Trúc ( Pleiku, Thiên Thu Nỗi Nhớ), Tô Quốc Thắng (Nhớ Pleiku) v.v...
Tình
yêu bàng bạc hầu hết trong mỗi sáng tác dù nhạc dù thơ. “Em Pleiku má đỏ
môi hồng” đã trở thành một gắn bó hữu cơ với các cô gái sinh sống tại phố
núi mù sương, dù kinh dù thượng. Tôi đang mơ màng về đôi mắt não nùng của
sơn nữ Pleiku mà chưa tìm ra cách ví von, bỗng tôi bất ngờ đến thở phào khi
khám phá được đôi mắt đẹp mênh mông sâu thẳm của em Pleiku qua mấy câu thơ
phổ nhạc như sau:
Em
đẹp thế Pleiku ơi/ Trái tim tôi muốn vỡ tan rồi
Không
dám nhìn vào đôi mắt ấy/ Đôi mắt Pleiku Biển Hồ đầy
(Đôi
Mắt Pleiku - Nguyễn Cường, 1992)
Biển
Hồ và núi Hàm Rồng là những thắng cảnh tiêu biểu của Pleiku. Biển Hồ mênh
mông không đáy, xanh thẫm một màu. Trong chúng ta, hẳn có lúc muốn “trầm
mình” vào đôi mắt biển hồ xanh thẩm của giai nhân, xem ra còn thi vị hơn là
uống rượu say rồi nhảy xuống sông để mò...trăng!
Không
phải chỉ có tình yêu đôi lứa mới thôi thúc người Pleiku tìm về với núi. Nhiều
người quay quắt nhớ Pleiku bởi vì tình yêu xưa (trong đó có tình quê và
tình đồng đội), luôn luôn đối mặt với bất trắc.
Cay
nghiệt hơn, tình yêu và nỗi chết ở Phố Núi là một gắn bó hữu cơ.
Tình
yêu và nỗi chết đã biến thành ma lực, thành khát vọng tìm về.
“Mai
xa lắc trên đồn biên giới”, mạng sống của người trai như chỉ mành treo
chuông, em hậu phương trông ngóng mong chờ. Biết bao chinh nhân đã hy sinh
mạng sống để bảo vệ cuộc sống Pleiku và biết bao xương máu của đồng đội đã
góp phần tô điểm rừng núi Tây nguyên giữ mãi một màu xanh huyền bí.
Pleiku
trở thành máu thịt của mỗi cư dân Phố Núi.
Chiến
trận mỗi ngày một khốc liệt, không chỉ người lính ra trận mà toàn dân,
không chỉ núi rừng chịu trận mà bản làng cùng chia sẻ. Tin vui ở Pleiku thì
ít, tin dữ không dám nghe. Một quả pháo rơi là thấp thỏm lo âu cầu khẩn.
Vì
là chốn tam biên lửa đạn, sống nay chết mai, hằng ngày phải đối đầu với hiểm
nguy và bất trắc, nên dễ nẩy sinh tình đồng đội, qua đó, địa danh Pleiku gắn
liền với kỷ niệm sinh tử trong tâm khảm những người liên hệ.
Pleiku,
địa danh đi đày, trở thành niềm kiêu hãnh cho những chinh nhân trấn đóng ở
Pleiku. Cũng có thể nói, Pleiku, chiến trường tây nguyên khốc liệt và thân
phận người lính, là một thể. Và đó là lý do để người lính cộng hòa
năm xưa lúc nào cũng nhớ về chiến trường xưa, nhớ về thanh xuân gian truân
của mình.
Pleiku
là thanh xuân, nên Pleiku son sắt mãi.
Pleiku
là gian truân, nên Pleiku chịu đựng.
Pleiku
là hiểm nguy, nên Pleiku can trường.
Pleiku
là nỗi chết, mầm sống từ đó vươn lên.
Chào
anh buổi sáng tây nguyên/ Tay ngang tầm mắt đầu nghiêng cúi chào
Quốc
kỳ phủ xuống công lao/ Có bi đông nước dựa vào xác thân
Nghĩ
anh đi cũng an phần/ Xum xuê có trẻ bâng khuâng đứng ngồi
Chị
thì rũ tóc máy môi/ Chào anh buổi sáng mắt tôi nhạt nhòa.
(Chào
Sáng – Võ Ý, Pleiku 1972)
Sự
hưởng ứng lời mời về tham dự Hội Ngộ Phố Núi từ muôn phương, đã thể hiện mầm
sống vươn lên từ bao nhiêu năm xa quê, âm ỉ một ngày về với núi. Vươn lên
trong chịu đựng, can trường và cả sự chết:
Một mai về lại Tam Biên đó/ Sương mỏng
như là chiếc lá bay
Vợ con trong đáy hồn xưa cũ/ Nhẹ ngủ êm đềm… nhưng rất
say.
(Một Mai Về Lại Tam Biên Đó –
Lâm Hảo Dũng)
Sự trở về với núi là dịp để những
người Pleiku “nhìn nhau bỗng thấy ra sông núi” (2), để hun đúc lại tình nước
tình nhà. Sự trở về với núi trong tiết thanh minh tháng 3, tại tượng đài
chiến sĩ Việt Mỹ Westminster cũng là thuân duyên để người Pleiku có dịp tri
ân biết bao sinh linh trên tỉnh lộ 7B mà 38 năm qua, chúng ta đã chìm quên
trong lãng mê:
Bao năm rồi – Tỉnh lộ 7B/
Sắt son ai giữ được câu thề
Bao giờ rửa được hờn sông núi/
Hay vẫn chìm quên trong lãng mê!
(Bao Năm Rồi- Tỉnh Lộ 7B – Thy
Lan Thảo)
Tôi muốn vẫy vùng khỏi cơn lãng
mê để được ngủ êm đềm nhưng rất say với núi rừng. Và trong
cái êm đềm nhưng rất say đó, lòng tôi vẫn rung động dù trí tôi mơ màng hình
ảnh những chinh nhân đi bảo vệ sự sống, từng xông pha khắp các chiến trường
tây nguyên khốc liệt năm nào, đã vùi thân trong lòng đất mẹ hay đang nấu
nung ý chí ở góc núi khe rừng đó đây....
Phải chăng đó là ma lực của Phố
Núi?
Võ
Ý
Corona,
thu 2012.
|