MÙA XUÂN NÓI CHUYỆN TRÀ
Nguyễn Quý Ðại
Theo
truyền thuyết hơn 6000 năm, vua Shin Nung
(Thần
Nông) tình cờ khám phá trà
thơm ngon, có thể chửa bệnh. Huyền thoại
về trà Bodhidharma (Bồ đề đạt ma)
người Ấn Ðộ lúc ngồi thiền hay buồn
ngủ, ngài giận cắt mí mắt ném xuống
đất và từ chổ đó mọc lên cây trà. Chuyện hoang đường này cho rằng
trà giúp sự thức tỉnh một sức mạnh của
tâm linh.
Theo tài liệu từ
đời nhà Tần 221 (TCN) biết dùng trà như một
dược liệu, chưa được phổ biến
sâu rộng trong dân gian. Thời nhà Đường Tang Dynastie
(618-907). Trà được uống trong các tu viện,
lần đầu tiên ở tu viện Yang Ling trên núi Tai
Shan, uống trà làm đầu óc tỉnh táo, dễ tập
trung hơn, từ đó thuật uống trà phát triển trong giới Thiền tông khắp Trung
Hoa. Tác phẩm đầu tiên viết về trà „Cha Ching/茶經/Trà Kinh“ của Lu Yu /陸羽(728-804) tên thật Tsing Ling Zhe sinh ở
Hubei/ Hồ Bắc, Trung Hoa. Ông mồ côi từ thuở
nhỏ được Thiền sư Zek Shin nuôi dạy, Lu Yu có dịp học nghệ
thuật pha trà từ vị cha nuôi ngay từ thuở
nhỏ, năm 18 tuổi ông rời Tu viện, Lu Yu
về Hán Thuỷ Han Jiang/漢水 vượt Ch'ang
Chiang trường giang là tả ngạn sông Dương Tử /子江 ẩn cư
ở Chiết Giang tên cũ
là sông Tiền Đường. Lu Yu vào ở trong chùa Diêu Khê
(Wuxing/Huzhou 吳興區), ông không chú tâm việc học kinh kệ để
trở thành thiền sư, mà chỉ miệt mài vào văn
chương và biên khảo. Ông có biệt danh "Chúa của trà /Der Gott des Tees.". Tác phẩm Cha Ching viết phương pháp chế biến,
pha trà, uống trà, liên quan đến lịch sử của
trà, đầy đủ nhất trong thời cổ
đại về trà ra đời, việc uống trà
được xem trọng như một ngành nghệ
thuật, Trà kinh trở thành cuốn sách quý lưu
truyền ở Trung Hoa, đến Trung Á, Tây Á và nhiều
nước ở Châu Âu. Lu Yu được Trung Hoa tôn lên
bậc Thánh trà, là một trong 10 vị Thánh trong lịch
sử Tàu[1]
Trà tại Á Châu
Tổ phụ nghành Y khoa Hippokartes
(460-370 TCN) cũng công nhận trà có dược tính tốt. Thời
Nữ hoàng Âu Châu Hildegard von Bingen (1098-1179) công nhận các loại trà giúp chửa bệnh,
và được nghiên cứu rộng rãi trong giới Y
khoa. Bác sĩ Nicolas Direks (1593-1674) người Hòa Lan
viết trong „Die Arznei“
uống trà sống lâu mỗi ngày nên uống trà (sự phát
triển, nghiên cứu về trà trải qua nhiều thế
kỷ, và đến ngày nay người ta nghiên cứu dùng
trà xanh trong việc chế tạo kem giữ da, hay dầu
gội đầu vv...)
Trà trồng ở các vùng
đồi núi quanh Hangzhou (Hàng Châu) Trung Hoa, các vùng trà nổi
tiếng là Lung Ching (Long Tĩnh) và Lung Ding ngoài ra còn có vùng bảy núi ở
Xishuangbanna. Trồng trà từ triều đại Tang/Đường
(618-907) nhưng mãi đến triều đại Qing/Thanh (1644)
trà được đưa vào việc sản xuất. Hiện
nay còn loại trà cây cổ thụ từ năm 1700
đời vua Shengzu-Kangxi (Thánh tổ Khang Hi) qua các đời sau, vùng nầy
trồng loại trà Pu-Erth (Phổ Nhĩ) lá dày. Nước
trà màu hơi đỏ, được xem như một dược
liệu chống lại bệnh có mỡ trong máu (wunderwaffe
gegen fett
/wonderful weapon
against fat).
Ở Ấn Ðộ
vùng núi Darjeeling cách xa Kalutta 600 km trồng các giống trà „Thea Chinensia“ được
công ty Ðông Ấn „East India Company
hoạt động từ năm 1600-1857“ lai giống các
loại trà, năm 1823 tại Assam thành công, thêm loại „Thea assimica“. Ấn Ðộ
trồng hơn 400 loại trà khác nhau, trà nổi tiếng
thơm ngon quanh vùng Himalaya trên cao độ 2200 m, các
vườn trà trong vùng thung lũng „Steintal“ và „Happy Vallytea
Estate“. Người ta cũng khám phá trà mọc hoang trên đồi
núi ở Ấn Độ, nên có nhiều nghi vấn nguồn
gốcTrà ở Ấn Độ trước Trung Hoa? Assam là vùng cao nguyên trên
thượng lưu Brahmaputra, có 2000 vườn trà
được lai giống khác nhau. Ấn Độ
xuất cảng trà đứng đầu thế giới
sau là Tích Lan (Sri lanka). Giống trà Thea assmica, được
người Anh ông Schotte James Taylor mang vào Tích Lan năm 1849,
sau 11 năm phát triển trồng trên cao nguyên Ceylon và Tamilen
Tại Việt Nam theo
sách An Nam Chí Lược ghi “tháng
5, năm thứ Tám niên hiệu Khai Bảo. Ðinh Liễn có
tiến cống nhà Tống vàng, lụa, sừng tê, ngà voi và
trà thơm“ Các tài liệu trên chứng tỏ
người Việt đã biết uống và biến
chế trà từ lâu. Ngành khảo cổ đã khai quật
tại vùng Nông Giang, Thanh Hóa tìm thấy được
nhiều bình,chén, dĩa trà thời gian nầy ngang với
đời Tống (Song 960-1279) từng bán sang
Nhật, dù hàng sành sứ của Việt Nam không sắc sảo,
nhưng hình vẽ cảnh thiên
nhiên sông nước, hoa lá hợp với phong cảnh Thiền
của Nhật.
Theo Nguyễn Trãi
ở Dư Ðịa Chi, đã kể trà Tước Thiệt
(trà lưởi chim sẽ) người ta gọi là trà móc
câu thuộc giống trà mi ở vùng Sa Bôi nay là tỉnh
Quảng Trị (ngày xưa thuộc Châu Ô, Châu Lý).
Có rất
nhiều giống trà trồng hợp với khí hậu
điạ phương, các nơi trồng trà nổi
tiếng như: Phú Thọ, Hòa Bình, Nghệ An, Thái Nguyên, Lai
Châu. Cao nguyên Bảo Lộc Lâm Ðồng có loại trà mi,
hải đường. Có hoa nhỏ thơm dịu, nụ
nhỏ, trà ngày nay theo nhu cầu kỹ nghệ sản
xuất lai nhiều giống, có 3000 loại trà mi khác nhau
trên thế giới. Ở vùng Vạn Hội, núi Chúa
thuộc huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định, có hai thứ
trà „cam“ và „khổ“ mọc hoang dã trên đồi gò hoặc
ven chân núi. Trà cam lá nhỏ, có vị ngọt như
đường, trà khổ lá to, xanh, dày và cứng uống thì rất đắng
như khổ qua trà giống như cây rau có dược
thảo khổ cự (rau diếp), khổ thái (rau
đắng) v.v… Rễ trà cam có tác dụng hồi sức
cho phụ nữ sau khi sanh con. Trà khổ làm cho người
say tĩnh rượu, uống thường xuyên trà
khổ, gan hoạt động tốt phòng ngừa bệnh
sốt rét.
Theo nghiên cứu các nhà khoa học,
trà phát sinh từ 3 loại chính của Ðài Loan và Nhật
Bản đó là Camellia Japonica,
Camellia sasanqua, và Camellia
reticulata. Trà mi có tên khoa học Camellia chrysantha trong thời gian gần đây
người Pháp tìm ra trà mi giống Việt Nam và
được nhắc đến trà mi hoa vàng tên Camellia vietnamensis ở Cúc Phương, đẹp hơn
trà mi hoa vàng gốc Nhật, hoa ít hơn, loại Camellia baviensis ở núi Ba Vì
hương thơm nồng nàn. Trà mi Camellia baviensis đem về trồng thí nghiệm
ở đại học Lâm nghiệp Xuân Mai Hà Tây. Hoa
lưởng tính cánh trắng nhụy vàng to nở lâu tàn.Trà
vào Nhật Bản thế kỷ thứ 6 Hoà Thượng
Huimeng (638-713) truyền Phật Giáo từ Trung Hoa sang
Ðại Hàn vào Nhật Bản và phát triển mạnh trong
thời Nara Zeit (709-784 奈良時代).
Trà du nhập vào cùng giai đoạn trên, nhưng đến
thời Hoàng Ðế Shômu/ 聖武天皇(724-749)
khoản đãi trà cho 100 tu sĩ Phật giáo tại hoàng
cung năm 729. Số trà này có lẽ do sứ thần
Nhật mua trong chuyến đi sứ Trung Hoa. Thiền
sư Saicho 最澄(767-822)
mang về một số hạt giống trà và trồng
tại Yeisan năm 801, từ thế kỷ thứ 8 trà dùng
phổ thông hơn. Kế tiếp qua nhiều triều
đại văn hóa phát triển. Cuối
thế kỷ 12, thiền sư Eisai Zenji 栄西禅師 (1141-1215) viết về việc
uống trà tập sách tựa đề „Kissa-yojo-ki /Zen-Meister
Eisai"... Thượng phụ Murato Shuko (1422-1502) biến
chế trà xanh (Matcha) dùng trong các Tu Viện và các Hiệp
sĩ đạo/Samurai. Ðến đời sư phụ Sen-No Rikyu 千利休 (1522-1591)
được nâng lên một nghệ thuật, trở thành
nghi thức uống trà (Tea ceremony/茶道Chanoyu)
khởi đầu tại Daitoku-Ji-Tempel.
Okakura Kakuzō/(岡倉 覚三,(1863-1913)
ở Yokohama
là học giả Đông phương
viết về trà „The Book of Tea“
năm 1906. Cho đến nay, tác phẩm này được
in lại rất nhiều lần, qua nhiều ngoại
ngữ khác nhau. Thái Lan, Lào,
Java ở Indonesia, Malaysia…
nhưng mỗi quốc gia đều có phương
pháp trồng trà riêng.
Trà nhập Âu Châu
Năm 1610
người Hòa Lan mang trà từ Trung Hoa về Âu Châu. Vua
Ludwig XIV, Marquise de pompadour, và Goethe là những người
uống trà xanh. Nữ hoàng Kathrina von Bragaza (1638-1705) con vua
Johanns IV Bồ Ðồ Nha (Portugal) cùng đoàn tùy tùng đến
Anh Quốc làm lễ thành hôn năm 1665, dâng lễ vật
quà cưới đến vua Charle II (1660-1685) trong đó có
nửa kilô trà. Chứng tỏ trà lúc đó rất quý
đối với giới quý tộc Âu Châu.
Các quốc gia Ấn
Ðộ, Tích Lan bị Anh quốc chiếm làm thuộc
địa, các thương gia Anh độc quyền
nhập trà năm 1657 về các cảng Cornwall, Dorset, Kent
chở về cho 2000 đại lý ở London bán trà đen
tại Âu Châu. Trà nhập Âu Châu bằng đường
thủy, trong thời gian nầy những đoàn lữ
hành, vượt sa mạc dùng lạc đà chuyên chở trà
từ Trung Hoa, Ấn Ðộ đến bán cho Nga sô. Nhưng
đến cuối thế kỷ 19 trà xanh tràng ngập
thị trường Âu Châu, nhờ phương tiện
lưu thông tiến bộ, thời gian chuyên chở làm cho
trà xanh không mất phẩm chất..
Trà đến Mỹ Châu
Năm 1650
thương thuyền Hòa Lan nhập trà vào New York, thời
ấy gọi là Amsterdam mới (new Amsterdam) và trên
đường Chatham có nguồn nước ngọt, vào
buổi sáng người đàn ông rung chiếc chuông nhỏ
rao bán nước „come and get
your tea-water!“. Năm 1773 ở Boston vì tranh cãi về thuế
trà, bị phản đối một phần trà nhập cảng bị ném xuống
biển… Các Tổng thống Hoa kỳ: Lincoln, Roosevelt,
Hoover, Kennedy đều uống trà.
Nhà nhập cảng trà
ông Sullivan tại New York, có sáng kiến bỏ trà vào túi
nhỏ bằng lụa cho mỗi tách trà, quảng cáo
gởi khách hàng uống thử. Từ sáng kiến đó
ngày nay người ta biến chế trà trong túi nhỏ bằng
giấy. Người Mỹ có thói quen uống trà xanh
nhập cảng từ Trung Hoa. Năm 1904 người Anh
Richard Blechynden đến St. Louis trong hội chợ
triển lãm về trà. Ông ta quảng cáo trà đen Ấn
Ðộ vì thời tiết nóng, uống trà nóng ra mồ hôi khó
chịu, ông bỏ nước đá vào ly trà, uống mùi
vị thơm ngon và mát, từ đó mở đầu cho
giai đoạn mới, uống trà với nước
đá „ice tea“.
Trước đây trong các siêu thị Mỹ thì
nguời ta thấy hầu như chỉ có trà Lipton
được bày bán dưới dạng trà bao cho vào tách uống nóng,
dạng bột đế quấy cho tan trong nước
rồi cho nước đá vào uống lạnh. Nhưng
đến nay thì có khá nhiều công ty có sản phẩm
cạnh tranh như công ty sản xuất trà và các loại
trà dược thảo có tên là Celestial
Seasonings, chế biến trà xanh của Trung Hoa.
Càng ngày các loại trà
dược thảo hiệu Celestial Seasonings càng nổi
tiếng trên khắp thế giới. Trong số hàng trăm
sản phẩm của hãng, loại bán chạy nhất là
sản phẩm có tên là Sleepy
Time. Uống buổi tối có nhãn hiệu con gấu
trong giấc ngủ mùa đông . Hộp đựng loại
trà có tên là „Morning Thunder“ là „sấm chớp bình minh“ uống
buổi sáng in hình con bò mộng đang lao nhanh tới. Phân loại trà với tên „Mandarin Orange Spice“/Trà
hương liệu cam dành cho nhà giàu đựng trong
hộp in hình một cô gái Tàu.
Trên khắp thế
giới trà được tiêu thụ nhiều vào hàng
thứ nhì chỉ sau nước lã. Nhưng tại Hoa
Kỳ trà vẫn đứng sau cà phê. Tuy nhiên với con
số người uống trà tại nước Mỹ
ngày càng gia tăng. Công ty Celestial Seasonings mua nguyên liệu
thẳng từ các nông gia tại Hoa Kỳ và nhiều
quốc gia khác trên thế giới, kể cả Trung Quốc,
Ai Cập, Mexico, Argentina, Chi Lê, Guatemala, Ðông Âu, Ma Rốc,
Indonesia và Việt Nam
Công ty Celestial Seasonings
đứng hàng nhì trong thị trường Mỹ chỉ
sau công ty Lipton, và hiện nay tại Hoa Kỳ còn rất
nhiều công ty khác đã và đang tính tiến vào thị
trường, chẳng hạn như 1 công ty tại Hawaii
chuyên về trà Mamaki, đang muốn mở rộng tầm
hoạt động ra ngoài phạm vi tiểu bang. Trà Mamaki,
1 loại cây cỏ của địa phương Hawaii,
được đem bán tại tiểu bang Washington. Riêng
về công ty Celestial Seasonings tuy sinh sau đẻ muộn
hơn không biết bao nhiêu hãng trà sen, trà sói, trà hoa lài...
của Việt Nam
Sản
xuất trà qua các giai
đọan căn bản, hái để lá héo, hấp
nước hay sấy qua, đập hay chà phơi khô sàng
lọc. Trà đen hay trà xanh cũng đều biến
chế từ các loại trà cây có tên khoa học : Camillia Sinensis và Camillia Assamica Ngày nay các hãng trà trên thế
giới hàng trăm loại khác nhau như Assam Mallty Fbop;
Rooibos Vnilla; Roobos; chai; China Ti kuan Yin Monkey picked,.Pu-Erh tea普洱茶, Blendel tea; Earl grey
tea; Lipton……
Bạch trà 白茶 White Tea
(vùng Pai Hao, Pai Mu Tan, Fujian) giống trà Flaum lá mịm
màng hái nụ trà hấp, phơi khô, biến chế sấy
nhiệt độ khác nhau, 1 kilo trà khô cần 30.000 nụ
trà tươi. Bạch trà chứa nhiều antioxidant
chống ung thư
Trà xanh 綠茶 (green tea) người Trung Hoa bỏ lá trà
xanh Lục Trà (luchà) vào
chảo gang nóng, rang sơ qua sau đó trộn bằng tay.
Ngược lại người Nhật bỏ lá trà vào
hấp nhanh khoảng một vài phút, hai phương pháp trên
đều có mục đích khử các kháng độc
tố, giữ cho trà có màu xanh, mùi thơm ngon, các vùng sản
xuất trà xanh như Sencha, Chen Mee…
Trà đen (black tea) Người Trung Hoa biến
chế trà đen cũng như Hồng Trà 紅茶 (hongchà)
ủ lá trà lên men. Sấy ướp các hương vị
như hoa lài.. có mùi thơm. Người Nhật hấp
nước, ủ lá trà lên men, ướp... trước khi
phơi khô, lá được cán hay chà nhỏ. Đóng
hợp, hay gói loại giấy có thể giữ mùi thơm.
Trong tiến trình ủ trà lên men tạo phản ứng hóa
học khử được độc tố không
mất lượng Coffein trong lá, giữ được mùi
hương nhưng trà có màu đen nổi tiếng như
ở Darjeeling, Ceylon ..
Trà Ô Long烏龍茶 (Oolong) được sao chế dung hòa
giữa trà đen và trà xanh lá ủ lên men màu đen, nhưng
nước trà màu hơi ngà ngà trà Oolong vùng Tung Ding rất
ngon
Yogi Tea : biến chế với
các loại rể, vỏ, lá cây như quế (Zimt), gừng
(Ingwe), lá tiêu (Pfeffer), nụ
đinh hương( Nelken), đậu khấu.(Kardamon)
chỉ uống vào buổi sáng làm cho người khoẻ
Fencheltea: là lọai trà dành cho Baby
ở Đức, ngoài ra còn có thêm các loại trà biến
chế thông dụng như Johanniskraut; Grüne Hafertee; Kamillentee;
Rotbrusch Tee; Pfefferminze, Holundertee; Lindenblütentee….
Trà tươi, người bình dân
Việt Nam thích uống trà tươi, trà nạn, lá trà già
các loại lá cây vối, ổi…
Các quốc gia Âu Châu
không thể trồng các giống trà từ Á Châu, nhập
cảng trà và pha chế, họ nghiên cứu phát triển
chế biến từ: hoa quả, lá thảo mộc có
dược tính sao chế thành trà uống để trị
bệnh. Tại Việt Nam cũng biến chế nhiều
loại trà như: khổ qua, trà sâm, Hà thủ ô..vv. Trà có mùi
vị thơm ngon, do bí quyết của người
biến chế, có thêm các mùi hương như các loại
trà ướp: hoa lài, sen, cam, bưởi, quế vv..(không
được dùng mùi hương hoá học để
ướp trà), theo nguyên tắc „Prime quality Tea for you to enjoy“
Hái trà vào buổi sáng,
không khí ban mai tinh khiết
hương của sương còn đọng trên cành
lá, thì hương vị của trà thêm ngào ngạt bởi
vì khí âm và khí dương hòa nhau thành sương là tinh anh
của trời đất. Hái trà theo từng mùa khí hậu
thay đổi trà có mùi vị phẩm chất khác nhau. „Flowery Orange Pekoe“ là loại nhất
tuyệt hảo nụ trà vừa nở „Orange Pekoe“ loại nhì ra lá non, „Pekoe“ loại ba lá trà thứ 3
Mùa xuân (first flush) loại trà nhất, Mùa
hạ (secondflush) loại trà
thứ nhì hái từ tháng 5 đến tháng
6. Mùa thu từ tháng 8 đến tháng10 (Bread
and Butter-tea-Regentee). Tuy nhiên tùy theo phong thổ, vùng nhiệt
đới ở Himalaya hay các vùng đồi núi ở Trung
Hoa độ cao có sương mù, không khí ẩm, trời
mưa nhưng đất khô ráo không làm ướt gốc
trà là yếu tố đặc biệt để trồng
các giống trà.
Sự
tích được nhắc đến tại Trung Hoa vùng
núi cao, người ta nuôi đàn khỉ được
huấn luyện mỗi sáng sớm, đàn khỉ trèo lên
các cây trà trên núi cao, còn sương mai hái ngọn trà non,
đem về cho chủ biến chế thành trà thơn ngon
và đắt tiền bán tại các tiệm trà có tên Hầu
Trà “trà khỉ/ monkey tea”. Theo
truyền thuyết thời xưa người ta chọn
các trinh nữ, trong những ngày tinh khiết hái trà mang trước
ngực có hơi ấm, nên gọi các trà ấy là “trà Hoa nữ” hay Xử Nữ Trà. Theo truyền
thuyết trong buổi tiệc người đầu
bếp sắp sửa pha trà, thì khám phá ra tất cả trà lá
quý hái trong chốn thâm sơn, đã bị con ngựa sút
chuồng ăn sạch. Để có trà, người
đầu bếp liền giết ngựa mổ bao tử
lấy lại trà, pha cho Thái Hậu và các quan khách. Trà có hương
vị đặc biệt thơm ngon, Từ Hy Thái Hậu Tz'e
Hsi/ 慈禧 (1835-1908), khen
ngợi và hỏi cách chế biến trà nên từ đó có tên
Trảm Mã Trà, câu truyện kể trên cho thấy các hóa
chất trong dịch vị của thú vật có khả
năng thăng hoa hương vị của trà
Nghệ thuật uống trà
Trên
thế giới trà có thể uống hàng ngày, người
Anh có câu tục ngữ “any time
is tea time”. Năm 1840 nữ công
tước Bedford tổ chức uống trà buổi
chiều “Afternoontea”, lúc16
giờ uống trà của Ceylon hay Lap-Souchong ngày nay còn
lại phong tục đó. Người Anh và các
quốc gia thuộc điạ của Anh quốc
thường có thói quen uống trà với sửa hay
đường. Ông Cecil Rhodes viết tại cung
điện Semore Place. Buổi sáng người phục
vụ thường hỏi “Ông
muốn uống trà Tàu, Ấn Ðộ hay Ceylon”. Nếu
trả lời dùng trà Ấn thì có câu hỏi kế tiếp
“với chanh, sửa hay bơ
“ ở Anh Quốc cũng thường nói “you enjoy tea and take it easy “.
Người Nhật đã uống trà thưởng
ngoạn như một
truyền thống, là nghệ thuật cao quý gọi là “trà đạo”. uống trà
với chén, bình trà bằng sứ, gáo múc nước
phải bằng tre (Chashaku) phong cảnh uống trà phải
thiên nhiên trầm mặc với bốn chữ: Hòa (Wa), Kính
(Kei), Thanh (Sei), Tịch (Jaku). Trà xanh ”O-cha” loại Bancha
cần nước nóng đun sôi khoảng 80 độ C,
trà Secha/Gyohuro dùng nước sôi khỏang 60 độ. Ngoài
ra còn biến chế các loại trà xanh thành trà bột
(Matcha) và các loại trà uống để chửa bệnh. Tại Kyoto có nhiều vườn trà vang bóng
của thời đại Momayama (1568-1600) và các nơi trà
đạo hấp dẫn, nhưng uống trà theo truyền
thống quỳ gối (seiza) ngồi
trên hai bắp chân! Nhật biến chế trà đen “Kô-cha”.
tuỳ theo mỗi nhà sản xuất, phẩm chất khác
nhau nên giá tiền chênh lệch
Du khách đến Tích Lan, thường mỗi sáng
theo phong tục nữ phục vụ xuất thân
người từ miền Nam đảo Tích Lan, mặc y
phục trắng mang trà đến mời “ your morning tea Sahib“. Người
Nga không những uống rượu Wodka, họ cũng
biết thưởng lãm nghệ thuật uống trà.
Năm 1638 Hoàng gia Mông Cổ tặng Nga 200 gói trà thơm ngon.
Họ dùng nồi nấu trà
(Samowar) đốt bằng than (hay điện). Phần thân
bình chứa nước, trên nắp để bình trà
nhỏ, bỏ trà chế nước sôi, độ sôi
của nồi nước bốc hơi làm nóng bình trà. Khi uống pha trà ở bình trên với
một phần nước sôi. Loại bình Samowar
người Thổ Nhỉ Kỳ cũng dùng để
nấu trà đen. Du khách đến Thổ vào các siêu thi, hay
cây xăng đều được mời ly trà nhỏ
bên cạnh cục đường và cái muổng nhỏ
Các loại bình trà bằng sứ được làm qua
nhiều thời kỳ khác nhau. Hơn 2000 năm
trước Thiên Chúa, tại Trung Hoa có loại sứ
Yih-Sing làm bằng đất sét vàng. Mãi cho đến
triều đại nhà Tống/Song (960-1279) nghệ
thuật thủ công nghệ làm những bình sứ màu
trắng, chén, diã trà tinh xảo hơn.
Bình
trà chinese Yinxing đời Minh (1368-1644)
Các quốc gia Nhật và
Ðại Hàn, cũng làm các loại chén bình bằng sứ trong
thời gian trên với người Trung Hoa.(các loại bình,
chén, diã sứ nầy còn lại trong các bảo tàng
viện). Tại Ðức năm (1730-1750) các vùng Bayreuth và
Ansbach có các lò biến chế chén, tách trà bằng thuỷ
tinh, bạc hoặc sứ. (Munich có lò đồ sứ
nhưng chỉ làm ly uống Beer lớn có tay cầm)
Trà với thi nhân mặc khách.
Ông De Quincey bảo “trà luôn luôn là ẩm phẩm của hạng trí
thức” Người Trung Hoa quan niệm “trà là bạn của ẩn sĩ
thanh cao”. Người Việt Nam cũng có nghệ
thuật uống trà như người Trung Hoa. Giới
trưởng giả dùng bộ trà trên khay hình chữ
nhật hay hình vuông có chân quì, khắc khảm ốc xa
cừ. Chén Quân, chén Tống, bình pha trà cổ các loại
độc ẩm, song ẩm và ẩm quần, của các
nhà sản xuất: Thế
Ðức, Lưu Bội, Mạnh Thần.
Pha trà phải chọn nước,
để trà tăng thêm hương vị, nước
suối thì tuyệt vời, nước giếng lấy
từ mạch nước thiên nhiên, bếp lửa phải
bằng than nhẹ lửa, nước sôi sủi mắt
cua, (khoảng 80 độ), tráng bình trà qua một lần
nước nóng, đổ ra trước khi bỏ trà vào
châm nước, (phải đổ ngay lần nước
đầu tiên gọi là rửa trà). Nước máy có
nhiều vôi cần phải lọc qua để nấu trà không
mất muì vị thơm ngon. Cách pha trà của người
Việt và người Trung Hoa, không biến thành qui tắc
nghiêm túc như ở Nhật.
Uống
rượu cần nhiều người cho náo nhiệt.
Uống trà là nghệ thuật trong trầm lặng, trà có
tính cách đưa người uống vào thế giới
mặc tưởng, bởi thế nên uống trà lúc tinh
thần sảng khoái, cảnh vật yên tĩnh, cần
người văn nhã biết cái thú uống trà, bỏ
mọi bận rộn đời sống bon chen, uống
từng chén nhỏ, gọi là “ẩm
sỉ”. Nếu người uống chén to,
uống một hơi làm sao biết hương vị của
trà nên bị gọi là “ngưu
ẩm”. Uống trà cũng như pha trà đều
cần một nghệ thuật cao. Người Tây
phương họ sành điệu về uống
rượu, beer, cafe. Ngày nay họ cũng nghiên cứu nghệ
thuật uống trà.
Thời vua chúa mỗi buổi sáng các cung
nữ thường lấy nước sương còn
đọng lại trên lá sen về cung pha trà. Hoặc
bơi xuồng trên các hồ sen (ở Huế nhiều
hồ sen) bỏ trà vào các búp sen sắp nở lượng
trà hảo hạng, trà hấp thụ mùi thơm của sen
dưới sương đêm. Sáng hôm sau vạch cánh hoa
lấy trà bỏ vào hủ đậy kín không mất mùi
hương đó là loại trà sen tuyệt hảo nhất.
Tô Ðông Pha (1037-1101) ví trà với mỹ nhân, nhưng
Ðiền Nghệ Hằng lại quan niệm “uống trà để quên cái huyên
náo phồn hoa, trà không phải để cho hạng ăn
cao lương bận lượt là thưởng thức”.
Lê
Quý Ðôn (1726-1784) quan niệm về nghệ thuật uống
trà “Một chén lòng sạch bong,
hai chén lòng phơi phới, đến chén thứ bảy thì
dưới hai cánh tay như có cánh thổi lên làn gió mơ
màng.”
Bán dạ tam bôi tửu
Bình minh sổ trảm trà
Mỗi nhật cứ như thữ
Lương y bất đáo gia
dịch là
Nửa khuya ba chén rượu
Tinh sương vài chén trà
Ngày nào đều như vậy
Lương y chẳng lại
nhà
Các cụ với kinh nghiệm sống dùng trà
để trị bị bệnh. Ngày nay Trung tâm nghiên
cứu về bệnh ung thư “Deutsche
Krebsforshungszentrum in Heilberg” cũng như Ðại Học
Kasas “University of Kasas city” phân
tích trà xanh có các chất “Epigallocatechin -3- Gallat viết
tắc là EGCG chứa nhiều Vitamin E và C, ngăn
được sự viêm cứng mạch máu, giảm
lượng mở trong máu vv.. Bác sĩ Jin-Rong Zhou,
Đại học Harvard, người đứng
đầu nhóm nghiên cứu cho biết, ý tưởng này
xuất phát từ thực tế là ở Trung Quốc,
tỷ lệ người bị ung thư tuyến tiền
liệt rất thấp, trà và đậu nành, vốn
được coi là có thể giúp ngăn ngừa ung thư.
Nối tiếp theo cuộc nghiên cứu
trước đây cho thấy trà xanh giúp ngăn chận
bệnh ung thư tử cung, các nhà nghiên cứu thuộc
đại học Kỹ thuật Curtin ở Perth đã
khảo sát 254 phụ nữ người Hoa đang mắc
bệnh nầy. Cuộc nghiên cứu do Giáo sư Andy Lee,
Giáo sư Colin Binns và Tiến sĩ Min Zhang thuộc khoa Y
tế của đại học này thực hiện,
đề nghị là nên uống ít nhất mỗi ngày
một tách trà như là dược liệu tốt
để ngăn chận các tế bào ung thư.
Đại học Wisconsin, Madison (Mỹ), cho biết trà xanh
có chứa hóa chất polyphenol có thể ngăn chặn
sự di căn của tế bào ung thư tiền liệt
tuyến.
Thử nghiệm
được tiến hành trên những con chuột
biến đổi gene mang bệnh ung thư tuyến
tiền liệt. Tất cả đều được cho
ăn có protein, carbohydrate, vitamin và muối khoáng, kèm uống
trà (tương đương 6-8 ly/ngày ở
người). Một số con
được ăn đậu nành hằng ngày
(tương đương 250 mg đối với
người). Kết quả cho thấy, nếu dùng riêng
rẽ, đậu nành và trà làm giảm tốc độ
phát triển của khối u và giảm kích thước
của nó khi lớn lên. Nếu dùng kết hợp, các
thực phẩm này sự phát
triển của khối u và ngăn ngừa sự lan
truyền của bệnh tới các hạch bạch
huyết lân cận, đi đến kết luận: Trà và đậu nành đều có tác
dụng ngăn ung thư. Đại học Y Khoa
Wisconsin cho biết kết quả trà xanh chửa
được bệnh Prostata.
Uống trà để tiêu khiển,
hưởng nhàn thường nhật, và dùng trong việc
ngoại giao, tế lễ, cúng tổ tiên, cúng Phật.
Tập tục uống trà đã ăn sâu vào sinh hoạt, các
văn nhân mặc khách thời xưa đã ca tụng thú
uống trà. Viên Chiêu thiền sư đời Lý Nhân Tông
Tặng quân thiên lý viễn
Tiễn bả nhầt bình trà
dịch
Tiễn chân ai bước
đường xa
Miệng cười đưa một
bình trà tặng nhau
Tiễn anh vạn dặm đàng xa
Ta xin rót một bình trà tặng anh
Các làng quê miền Trung Việt Nam cũng
trồng trà, hái trà non hai lá, và nụ trà để biến
chế dành cho ngày tết. Các khu vườn ngoài diện
tích sử dụng sinh hoạt, còn lại trồng cau, trái
cây cam quít, và những cây trà cao ngang tầm người.
Người miền Trung thường gọi cây trà là cây
chè, lá dày lớn màu xanh đậm và láng, trổ bông màu
trắng 5 cánh, đường kính khoảng 10 cm, nhụy
vàng thơm nhẹ. Dọc theo các đường làng,
thị trấn miền Trung thường có quán bán nước
chè xanh, trong căn lều tranh nhỏ, cái nồi
đất nấu trà tươi bốc mùì thơm ngon,
trưa hè hay chiều thu, ghé quán uống bát chè xanh múc
bằng chiếc gáo ừa, trà xanh sóng sánh như nắng
vàng với thoáng hương thơm. Nâng chiếc bát
bằng sứ uống từng hớp nhỏ, trà sẽ làm
dịu cơn khát và có cảm giác thú vị ngọt ngào. Trà
là hình ảnh quen thuộc như cây đa đầu làng,
con đò bến sông, trà không thể thiếu trong sinh
hoạt, dù đời sống văn minh có những quán
giải khát bán cola, nước ngọt với nước
đá. Nhưng không thể quên được quán chè xanh bên
đường. Trà trở thành nếp sống văn hóa,
đã đi vào lòng dân tộc. Các cụ uống trà và ngâm
mấy câu thơ :
Làm trai
biết đánh tổ tôm
Uống trà Liên tử ngâm nôm Thúy
Kiều
Bài thơ gọi trà của nhà cách
mạng Phan Bội Châu (1867-1940) chủ tịch danh dự
của Việt Nam Quốc Dân Ðảng, buồn cho vận
nước. Ðể thức tỉnh hồn thiêng sông núi,
trong thời kỳ chống thực dân Pháp dày xéo quê hương:
Trà ơi! Còn nước là vinh
hạnh
Cháy lưỡi khô môi thảm
những ai!
Ðại văn hào Nguyễn Du (1765-1820)
thưởng thức trà với tâm sự
Khi hương sớm lúc trà
trưa
Bàn lan điểm nước
đường tơ họa đàn
Thi nhân Bạch Cư Dị uống trà để
cảm thương cho số phận người kỹ nữ,
Khách trọng lợi, kinh
đường ly cách
buôn trà sớm tếch ngàn khơi
Thuyền không đậu
bến mặc ai
quanh thuyền trăng dãi,
nước trôi lạnh lùng
Phan huy Thực dịch
Nồi cơm nấu dở bát
nước chè xanh
Ngồi vui kể chuyện tâm
tình bên nhau
Hoàng Trung Thông
Dừng chân bên quán nước,
người lính trẻ Quang Dũng uống bát trà xanh nóng
làm vơi cơn khát, diụ bớt nhọc nhằn.
Tiếp tục hành trang lên đường, nhưng lại
vướng đọng bóng giai nhân
Tiền nước trả em
rồi nắng gắt
Ðường xa choáng váng núi và mây
Hồn lính vấn vương
vài sợi tóc
Tôi thương mà em đâu có hay
Quang
Dũng
Nguyên sa nói về định mệnh,
những oan nghiệt cuộc đời tục lụy.
Chiều chiều bên bình trà nhỏ, uống để
nhớ lại cố hương, nhưng thời gian
đi mãi có đợi ai bao giờ!
Chất xám trong não bộ lên men
Trán nhăn dăm bảy,
nếp kinh thiên
Thượng Ðế trên cao,
chiều độc ẩm
Mạt lộ, ta ngồi
chỗ hạ phiên
Nguyễn Khuyến (1835-1909) cuộc
đời nhàn hạ vui với gió trăng
Khi vườn sau khi sân
trước
Khi điếu thuốc, khi
miếng trầu
Khi trà chuyên năm ba chén
hi Kiều lẫy một đôi
câu
Nguyễn Khuyến
Xuân về trong ba ngày tết, nâng tách trà
nhớ lại xuân xưa, bên quê nhà với nhiều kỷ
niệm, dĩ vãng mãi mãi còn ngân vang trong lòng người
viễn xứ, uống trà đàm đạo để
sống lại với hồn quê hương sông núi .
Tài liệu tham khảo
Gruener Tee tác giả Jean Puetz & Monika Kirschner
Das hobby thek buch
Geheimmis Japan tác giả (Shuichi Kato)
Sir Lanka tác giả (Polylott)
The importance of living (Lin Yutang) Lâm Ngữ
Đường
Zen in der kunst des Tee –
Weg tác giả Horst Hammìtzsch
Hình trên Internet